Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) Ngữ văn 11, trường THPT Quốc Oai - Hà Nội

7b928fe0301383a03633b2ee6da34762
Gửi bởi: Nguyễn Trần Thành Đạt 8 tháng 2 2021 lúc 7:35:19 | Được cập nhật: 14 giờ trước (4:34:23) Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 305 | Lượt Download: 9 | File size: 0.048258 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA

Hoài Thanh

A.Kiến thức cơ bản

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả: Hoài Thanh

a. Tiểu sử, cuộc đời:

- Tên thật là Nguyễn Đức Nguyên ( 1909-1982)

- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo

- Quê quán: Nghi Lộc, Nghệ An

- Cuộc đời:

+ Trước Cách mạng: ông tham gia các phong trào yêu nước và từng bị thực dân Pháp bắt giam

+ Sau Cách mạng: ông hoạt động chủ yếu trong ngành Văn hóa- Nghệ thuật và đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng

b. Sự nghiệp

- Tác phẩm: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942)

- Phong cách nghệ thuật:

+ Có biệt tài thẩm thơ

+ Khi phẩm bình thơ thiên về thưởng thức và ghi nhận ấn tượng trên cơ sở lí luận vững chắc

+ Gọng văn phê bình nhẹ nhàng, hóm hỉnh, hào hoa lối phê bình “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”

- Đóng góp: Đem đến cho văn học một phong cách phê bình riêng, đặc sắc: sự uyên bác về tri thức, sự tinh tế trong cảm thụ, giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ

=> Ông được coi là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại

2. Tác phẩm: Thi nhân Việt Nam

- Tác giả: Hoài Thanh, Hoài Chân

- Hoàn cảnh ra đời: Vào thời kì đỉnh cao của phong trào Thơ mới (1941)

Tôi quả quyết rằng: trong lịch sử thơ ca Việt Nam chư abao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” (Hoài Thanh)

- Thể loại: Phê bình văn học

- Xuất xứ: Công trình biên khảo về Thơ mới ( viết năm 1941, hoàn thành năm 1942)

- Gía trị: Là tác phẩm phê bình văn học có giá trị, được coi là chuẩn mực phê bình của Thơ mới

3. Tiểu luận: “Một thời đại trong thi ca”

- Vị trí: Tiểu luận mở đầu của quyển “Thi nhân Việt Nam”

- Đánh giá: Là công trình tổng kết về Thơ mới hay nhất, là áng phê bình bất hủ, đầy tính nghệ thuật, cuốn hút người đọc

4. Đoạn trích:

- Vị trí: đoạn trích SGK thuộc phần cuối của bài tiểu luận

- Bố cục: 3 phần: Tinh thần Thơ mới:

+ Phần 1 (đầu tới “nhìn vào đại thể”): Nguyên tắc xác định tinh thần Thơ mới

   + Phần 2 (tiếp đến “Huy Cận”): tinh thần Thơ mới - sự khẳng định và vận động của “cái tôi”

   + Phần 3 (đoạn cuối): Hướng giải quyết bi kịch

Chặt chẽ, logic, khoa học

II. Đọc- hiểu văn bản

1. Phần 1: Con đường và nguyên tắc xác định Thơ mới

- Tác giả đưa ra hai giả thuyết:

+ “ Gía các nhà Thơ mới cứ viết những câu thơ như...mấy”:

Gỉa thuyết 1:

Hôm nay tôi đã chết trong người

Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi”

Gỉa thuyết 2: Giá trong thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy. 

- Tác giả đưa ra dẫn chứng bằng hình thức so sánh:

=> hình ảnh ước lệ cổ điển

+ Thơ mới:

Người giai nhân bến đợi dưới cây già

Tình du khách thuyền không buộc chặt

(Xuân Diệu)

=> Giọng điệu trẻ trung, hiện đại, nhí nhảnh, tân thời

+ Thơ cũ:

Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ

Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ

(Bà Huyện Thanh Quan/ Hồ Xuân Hương)

=> Cách nêu giả thiết + cách nêu dẫn chứng so sánh Con đường xác định tinh thần thơ mới là rất khó khăn:

+ Ranh giới giữa thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng dễ nhận ra : trong cái cũ đã ươm mầm những cái mới và trong cái mới vẫn còn sót lại, rơi rớt lại những câu cũ

+ Trong cả thơ cũ và thơ mới đều đan xen những bài hay lẫn bài dở nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới

b. Nguyên tắc xác định Thơ mới

- Nguyên tắc 1: Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy phương pháp so sánh bài hay với bài hay (bài hay là đại diện tư tưởng cho cả một thời đại)

- Nguyên tắc 2: “Trời đất không phải chỉ dựng lên cùng một lần...phải nhìn vào đại thể” cái nhìn bao quát, biện chứng, nhiều chiều

=> Nguyên tắc xác định tinh thần Thơ mới đó là: chỉ căn cứ vào cái hay, không căn cứ vào cái dở chỉ căn cứ vào đại thể, không căn cứ vào tiểu tiết

=> Cách nêu luận điểm rõ ràng, mới mẻ, khoa học, dẫn chứng tiêu biểu lập luận theo lối quy nạp, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục

2. Phần 2: Tinh thần thơ mới

a. Định nghĩa: Tinh thần thơ mới bao gồm trong chữ tôi, bản chất cái tôi chính là quan niệm cá nhân được hiểu theo nghĩa tuyệt đối của nó

Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau

- Tư tưởng thời xưa: “chữ ta cái chung, ý thức cộng đồng

- Tư tưởng thời nay: “chữ tôi cái riêng, ý thức cá nhân

Thơ cũ

Thơ mới

- Chủ yếu là chữ ta (chữ tôi nếu có phải ẩn sau chữ ta)

- Thường đề cập đến những tình cảm chung, mang tính cộng đồng, ít thể hiện tính cá nhân, nếu có thì chưa quyết liệt mạnh mẽ

- Chưa có ý thức tạo nên phong cách cá nhân

- Ảnh hưởng của tư tưởng Phương Đông

- Xuất hiện chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó

sự trỗi dậy bùng nổ của ý thức cá nhân

- Người viết trực tiếp bày tỏ những cảm xúc, tình cảm riêng tư cá nhân

- Ý thức khẳng định tài năng vị trí cá nhân xuất hiện hàng loạt phong cách t- Ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây

=> Nhận xét chung: Tác giả đã bắt đúng mạch chính của hai dòng chảy thi ca (thơ cũ và thơ mới; thơ trung đại và thơ hiện đại)

- Phát hiện đúng cái gốc của sự khác biệt (tôi-ta)

- Cách thâu tóm vấn đề ngắn gọn, ấn tượng

=> Phong trào thơ mới là thời đại của cái tôi, cái tôi thoát ly không nhiều ràng buộc, không nhiều lễ giáo phong kiến. Cái tôi y là cái tôi bản ngã đẩy mạnh mẽ đầy cá tính và nó tạo cho cho giai đoạn Thơ mới như được khoác lên một tấm áo mới rất hiện đại, rất tinh tế, rất khác biệt và là một luồng sinh khí mới, một quan niệm thẩm mĩ mới, một tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ giai đoạn này.

b. Hành trình của cái tôi cá nhân trong nghĩa tuyệt đối của nó

- “Ngày thứ nhất- ai biết đích xác..... nó thật bỡ ngỡ.... nó như lạc loài nơi....quan niệm cá nhân

- “...Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu.

- “Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bở ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!

- Ngày thứ nhất bơ vơ, lạc loài khó chịu, ác cảm

- Ngày một, ngày hai vô số người quen chấp nhận

3. Bi kịch của cái tôi cá nhân và cách giải quyết

a. Bi kịch của cái tôi cá nhân

- Bi kịch thứ nhất: “Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi...... Nhưng ta trách gì Xuân Diệu! Xuân Diệu, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại, chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại của hết thảy chúng ta.

=> Bi kịch mất hết cốt cách hiên ngang ngày trước:

  • Không có khí phách ngang tàn như Lí Bạch

  • Không có lòng tự trọng, sinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ

  • Rên rỉ, khổ sở, thảm hại

* VD, so sánh :

Nguyễn Công Trứ:

Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch,

Người quân tử ăn chẳng cầu no,

Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho,

Đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

=> Cười trước cảnh nghèo

Xuân Diệu:

Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ

=> Khóc than rên rỉ trước cảnh nghèo

=> Chốt: Cái tôi trong Thơ mới yếu đuối khổ sở thảm hại không có khí phách cốt cách của người xưa

- Bi kịch thứ hai: Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.

- Mất bề rộng ta tìm bề sâu càng đi sâu càng lạnh

Không tìm được tiếng nói chung với cộng đồng, không tìm được sự giao thiêp Trốn vào ý thức cá nhân, thoát ly cuộc đời theo xu hướng thoát ly Càng muốn vượt thoát thì cuối cùng lại càng bế tắc, cô đơn

- Thế Lữ lên tiên Động tiên khép

- Lưu Trọng Lư phiêu lưu trong trường tình tình yêu không bền

- Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử điên cuồng điên rồi tỉnh

- Xuân Diệu đắm say vẫn bơ vơ

- Huy Cận ngẩn ngơ buồn sầu

=> Động từ, liệt kê lỗi diễn đạt tinh tế, tài hoa, lập luận chặt chẽ, giàu cảm xúc

=> Bi kịch buồn, cô đơn, bế tắc

- Nhà thơ Vũ Hoàng Chương cũng viết:

Say đi em! Say đi em!  Say cho lơi lả ánh đèn Cho cung bậc ngả nghiêng, cho điên rồ xác thịt! Rượu, rượu nữa! và quên, quên hết!

Hay trong bài thơ Quên, nhà thơ cũng bộc bạch:

Hãy buông lại gần đây làn tóc rối, Sát gần đây gần nữa, cặp môi điên, Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói, Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.

Tư tưởng thoát ly, trốn chạy thực tại nhưng vẫn bế tắc, cô đơn

=> Chính sự thoát ly theo các xu hướng đã đưa đến sự “nở rộ” của các phong cách thơ

- Bi kịch thứ 3: Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khi bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phú trên thi tử. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đo ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.

Bi kịch thiếu lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát ly nhưng rồi rơi vào bi kịch (không thể nương tựa vào 1 cái gì đó, không thể di dịch như thời trước)

b. Giải pháp cho những bi kịch

Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng. Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng. Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt. Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

- Điệp cấu trúc “chưa bao giờ”, giọng văn giàu cảm xúc

- Giải pháp cho những bi kịch: Gửi tình yêu vào tiếng Việt

Đánh giá giải pháp:

+ Tấm lòng trân trọng, tình yêu tha thiết với tiếng Việt

+ Thể hiện sức sống lâu bền của tiếng Việt

+ Tạo ra mối quan hệ gần gũi giữa tiền nhân và hậu nhân

=> Tấm lòng yêu nước của những nhà thơ mới

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới-cái tôi

- Nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thi nhân hồi bấy giờ, trân trọng cách giải quyết bi kịch- tình yêu tiếng Việt, tình yêu nước của các nhà thơ mới

2. Nghệ thuật

- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, khoa học từ khái quát đến cụ thể, từ xưa đến nya, từ xa đến gần (phản ánh tư duy khoa học, sự am hiểu sâu sắc đối tượng)

- Văn phong tài hoa, sắc sảo mà tinh tế, ngôn ngữ giàu hình ảnh mang sắc thái biểu cảm cao tiêu biểu cho phong cách nổi bật của Hoài Thanh

B.Bài tập

I. Bài tập trắc nghiệm.

Câu 1.Lời đánh giá nào sau đây đúng với Hoài Thanh?

Trong tư cách là nhà phê bình văn học. Hoài Thanh được xem là:

A.Một nhà phê bình xuất sắc nhất của Thơ mới Việt Nam.

B.Một trong những nhà phê bình xuất sắc nhất của nền VHVN đương đại

C. Một trong những nhà phê bình xuất sắc nhất của nền VHVN hiện đại.

D.Một trong những nhà phê bình xuất sắc nhất của VHVN thế kỉ XX

Câu 2.Thông tin nào sau đây là chính xác ?

Một thời đại trong thi ca là bài tiểu luận:

A.Mở đầu cuốn Thi nhân Việt nam

B. Mở đầu cuốn phê bình và tiểu luận ( Hoài Thanh )

C.Kết thúc cuốn Thi nhân Việt Nam ( Hoài Thanh )

D.Kết thúc cuốn phê bình và tiểu luận ( Hoài Thanh)

Câu 3. Thông tin nào sau đây là chính xác ?

A.Đoạn trích Một thời đại trong thi ca trong SGK nằm ở:

A. Phần mở đầu bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca.

B.Phần giữa bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca

C. Phần cuối bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca.

D. Phần kết bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca.

Câu 4.Khái quát nào sau đây đúng nhất?

Về nội dung , doạn trích Một thời đại trong thi ca tập trung bàn về :

  1. Sự khác nhau giữ cái tôi và cái ta.

  2. Bi kịch của các nhà thơ mới.

  3. Sự trong sáng ,tinh tế của ngôn ngữ thơ tiếng Việt

  4. Tinh thần thơ mới

Câu 5.Theo Hoài Thanh , thơ mới ra đời như thế nào ?

  1. Thơ mới ra đời một cách bất ngờ ,đoạn tuyệt với thơ cũ.

  2. Thơ mới ra đời từ thơ cũ và còn rớt lại ít nhiều dáu vết thơ cũ.

  3. Thơ mới ra đời từ thơ cũ và lưu giữ lại đầy đủ tinh thần thơ cũ.

  4. Thơ mới ra đời từ nền tảng của các nước phương Tây.

Câu 6. Theo Hoài Thanh . khi chữ Tôi xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam, nó nhận được thái đọ phẩn ứng như thế nào từ công chúng văn học A.Người ta khó chịu và không bao giờ chấp nhận nó.

B.Người ta thấy khó chịu , nhưng dần dần thấy nó thật đáng thương.

C. Người ta chỉ thấy nó gần gũi, tội nghiệp, đáng thương

D. Người ta thấy thương cảm nhưng không dễ dàng chấp nhận nó.

Câu 7. Khi bàn về bi kịch của cái tôi của các tác giả Thơ mới, nhắc đến nẻo thoát li riêng của hồn thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Hoài Thanh đã dùng đến từ nào ?

  1. Điên dại

  2. Điên rồ

  3. Điên khùng

  4. Điên cuồng

Câu 8. Khi bàn về bi kịch của cái tôi của các tác giả Thơ mới, nhắc đến nẻo thoát li riêng của hồn thơ Xuân Diệu, Hoài Thanh đã dùng đến từ nào

A.Dắm đuối

B.Đắm say

C.Đắm chìm

D. Say Đắm

Câu 9. Khi bàn về bi kịch của cái tôi của các tác giả Thơ mới, nhắc đến nẻo thoát li riêng của hồn thơ Xuân Diệu, Hoài Thanh đã dùng đến từ nào ?

A.Ngẩn ngơ sầu

B.Man mắc buồn

C.Ngậm ngùi buồn

D. Vẩn vơ buồn

Câu 10.Trong đoạn trích,Hoài Thanh có viết: “ Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta.Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác.

. Điều cần hơn trăm nghìn điều khác đó là gì ?

A.Một lòng tin đầy đủ

B.Một tình yêu đầy đủ

C.Một ý thức cá nhân đầy đủ.

C.Một ý thức cộng đòng dày đủ.

II. Bài tập tự luận.

Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện như thế nào trong các bài thơ Vội vàng ,Tràng Giang , Đây thôn VĨ Dạ

10