Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 17:26:42


Mục lục
* * * * *

Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 

Nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu, ta không chỉ nhớ về tác phẩm Lục Vân Tiên mà ông còn có rất nhiều bài văn tế có giá trị nghệ thuật, một trong những tác phẩm đó là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm đã khắc họa thành công chân dung người nông dân nghĩa sĩ mộc mạc, chất phạc nhưng vô cùng nghĩa khí, dũng cảm đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm văn học.

    Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Nghĩa quân Cần Giuộc đã giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc không ngừng phản công dữ dội, trước sự phản công đó 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giời, tuần phủ Gia Định lúc bấy giờ là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết một bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Hình ảnh người nông dân trong văn học trung đại Việt Nam không phải lần đầu tiên xuất hiện, mà ta đã bắt gặp trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:

    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

    Trong tác phẩm này Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nhân dân đối với đất nước song ông lại chưa làm rõ được vẻ đẹp anh dũng kiên cường của họ. Chỉ đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc vẻ đẹp chân chất giản dị mà hết sức kiên cường, dũng cảm của họ mới được thể hiện một cách đầy đủ nhất.

    Trước khi thực dân Pháp xâm lược họ là những người nông dân chất chất, mộc mạc: “Nhớ linh xưa/ Cui cút làm ăn, toàn lo nghèo khó/ Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường cung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Họ - những người nông dân vốn chỉ sinh sống trong không gian hết sức nhỏ bé, đó là ngôi làng họ từng sinh ra và lớn lên. Sau lũy tre làng ấy họ cần cù, chăm chỉ làm ăn, cuộc sống tuy nghèo khó nhưng rất đỗi yên bình, họ chưa biết đến kiếm cung. Tay họ vốn chỉ quen việc cày, việc bừa, còn việc tập khiên, tập súng mắt họ chưa từng ngó lấy một lần. Họ rất xa lạ với công việc nhà binh, chỉ quen với việc đồng áng. Họ là những con người hết sức giản dị, mộc mạc.

    Điều khiến họ trở thành những người nông dân nghĩa sĩ ấy chính là khi quân giặc xâm lược, niềm mong mỏi về sự cứu giúp của triều đình chìm trong vô vọng “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Lòng họ cuộn trào nỗi căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lộp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra căn cổ”. Trước tình cảnh ấy, làm sao người nông dân có thể chịu đứng yên, nhìn chúng giày xéo đất tổ. Cho nên ho đã đi đến quyết định vùng lên chống lại những kẻ xâm lược bất nhân. Như vậy với lòng căm thù giặc, ý thức trách nhiệm với đất nước đã khiến cho họ từ những người nông dân hiền lành thành những người có nghĩa khí, không màng đến sự sống chết của bản thân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Đây chính là vẻ đẹp truyền thống trong tâm hồn người Việt, khi giặc xâm lăng mới có cơ hội được bộc lộ rõ nét.

    Điều kiện đi đánh giặc của họ hết sức nghèo nàn, thiếu thốn: “Mười tám ban võ nghê, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố”“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Thì ra bước vào trận quyết đấu họ lại chỉ được trang bị hết sức thô sơ như vậy. Họ không phải những người lính chuyên nghiệp, được rèn luyện binh đao, chẳng qua họ chỉ là những người dân cày, vì nước mà tình nguyện lên đường. Quần áo vũ khí họ cũng không được trang bị, có thứ gì họ mặc thứ ấy: manh áo vải trong tay và chỉ có thêm chiếc gậy tre dao phay hoặc rơm con cúi. Họ phải làm thế nào để có thể chống đỡ được những vũ khí lợi hại của kẻ thù.

    Mặc dù được trang bị hết sức thô sơ, nhưng không vì thế mà làm chùn bước những người nông dân nghĩa sĩ. Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện vô cùng sinh động không khí hào hùng của trận đánh. Họ mang theo “hỏa mai bằng rơm con cúi” vậy mà cũng đốt được ngôi nhà dạy đạo; gươm đao của họ chỉ là lưỡi dao phay nhưng đã giết chết hai tên quan của giặc. Hành động của họ vô cùng mau lẹ, dứ khoát “đạp rào lướt tới” “xô cửa xông vào” không sợ những kẻ có vũ khí mạnh, liều mình vào chỗ hiểm nguy như chẳng có chuyện gì xảy ra. “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Họ là những con người vô cùng kiên gan, dũng cảm, họ bất chấp hiểm nguy, hòng tiêu diệt bằng được những kẻ ngoại xâm. Lời văn vô cùng mãnh liệt, rắn rỏi, thủ pháp đối được vận dụng tài tình đã tái hiện lại một cách đầy đủ không khí của trận chiến, nó xứng đáng là “một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút thật hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của nghĩa sĩ nông dân” (Lê Trí Viễn). Dù trong trận chiến ấy, những người nghĩa sĩ nông dân có thất bại nhưng hình ảnh anh dũng, quả cảm của họ vẫn con sống mãi trong lòng những người ở lại. Đồng thời cái chết của họ cũng là lời khẳng định cao nhất, ý nghĩa nhất cho sự quả cảm, họ sẵn sàng hi sinh vì độc lập của nước nhà.

    Xây dựng chân dung người nghĩa sĩ nông dân tác giả đã sử dụng ngôn tử giản dị, dễ hiểu, nhưng lời ăn tiếng nói của người dân. Thủ pháp đối lập được vận dụng triệt để vừa cho thấy những khó khăn đồng thời thấy được vẻ đẹp nhân cách của họ. Giọng điệu khi hào hùng, khi cảm thương, xót xa.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa thành công hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ. Họ hiện lên vừa giản dị, mộc mạc, vừa anh dũng kiên cường. “Lần đầu tiên trong lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng dân tộc đã đề cập trực tiếp đến người nông dân chân lấm tay bùn và đưa họ từ chỗ vô danh tiểu tốt lên thẳng vinh quang của vũ đài lịch sử, trở thành nhân vật trung tâm của cuộc chiến chống ngoại xâm cứu nước của lịch sử”.

Phân tích Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước qua bài Chiếu cầu hiền

Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.

    Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.

    Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.

    Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.

    Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.

Nghị luận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương 

Bài thơ “Tự tình II” tả cảnh đêm khuya thanh vắng, người đàn bà một mình cô đơn lẻ loi không ngủ mà tự ngẫm thương xót cho thân phận, tình cảm của mình. Cảnh vật trong đêm thanh tĩnh, u tịch với “Văng vẳng” của tiếng trống canh dồn. Ta đã từng bắt gặp âm thanh ấy trong bài “Chiều hôm nhớ nhà” của bà Huyện Thanh Quan: “Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn” dù chỉ là buổi chiều nhưng cũng đủ gợi buồn sâu thẳm huống chi là đêm khuya vắng vẻ chỉ với một thân một mình trong cô đơn. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công tiếng trống dồn canh từ xa vọng lại như thúc giục thời gian trôi qua nhanh, làm cho không gian càng thêm vắng lặng, buồn bã.

Con người hiện lên trên nền cảnh không gian, thời gian ấy là một tấm thân cô độc “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Hồng nhan là sắc mặt hồng cách hoán dụ lấy bộ phận để chỉ toàn bộ ý nói đến người con gái đẹp. Từ “cái” cụ thể hóa đối tượng được nói đến. Từ “trơ” đặc tả trạng thái trơ lì, chai sạn về một phương diện nào đó, ở đây là “trơ” với “nước non” tức là với thế giới tự nhiên và xã hội, nó được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm nỗi xót xa, đau đớn đến không còn cảm giác của tác giả.

Khi buồn, sầu, đau, cô đơn con người ta thường hay tìm đến rượu để tiêu sầu, thi sĩ cũng vậy nhưng bà càng uống lại càng tỉnh:

    “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Người ta nói khi say là khi sống thật với chính mình, với tâm hồn của một thi sĩ uống rượu ngắm trăng là lúc cảm xúc thăng hoa nhất nhưng Hồ Xuân Hương càng uống lại càng tỉnh, tỉnh bao nhiêu thì buồn đau cho thân phận mình bấy nhiêu. Bà ngắm trăng thấy ánh trăng đã tàn mà chưa có một khoảnh khắc nào tròn. Bà ngẫm cho mình thanh xuân cuộc đời người phụ nữ đã trôi đi già nửa mà chưa một lần được hưởng hạnh phúc trọn vẹn yêu thương. Càng hy vọng, càng chờ bao ngày tháng càng thất vọng buồn tủi bấy nhiêu đau. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ tài sắc mà duyên phận lại hẩm hiu. Hồ Xuân Hương đã từng cất lên tiếng chửi của thân phận làm lẽ:

    “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

    Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

hạnh phúc là một tấm chăn hẹp trong hoàn cảnh của nhà thơ người vợ lẽ luôn phải chịu thiệt hơn bởi tình cảm không những không được san sẻ mà bị cướp sạch sẽ bởi vợ cả. Nguyễn Du từng cất tiếng khóc thương cho thân phận của kiếp đàn bà:

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Hồ Xuân Hương tuy là số phận hẩm hiu nhưng bà là một con người có cá tính mạnh mẽ. Dù bi thương nhất nhưng vẫn không cam chịu, chấp nhận mà phản kháng mạnh mẽ, dữ dội được thể hiện qua ý chí trong hai câu thơ:

    “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” được sử dụng, các động từ mạnh xiên, đâm với bổ ngữ ngang và toạc nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên. Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé, yếu ớt so với mây trời, mặt đất rộng lớn bao la mà có sức mạnh vô cùng. Nhà thơ vốn là một con người tự tin yêu đời nên nhìn rêu nhìn đá trong vũ trụ bao la vẫn hoạt động mạnh mẽ, sức sống mãnh liệt qua đó cũng cho thấy bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương: Luôn cảm nhận sự vật dưới cái nhìn mạnh mẽ, hàm chứa một sức sống dào dạt. Dù trải qua nhiều bi kịch, đau thương với đời nhưng bà luôn gắng gượng phản kháng. Hồ Xuân Hương đã có lần tự khẳng định cái tôi cá nhân của mình:

    “Ví đây đổi phận làm trai được

    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”

Tuy là mạnh mẽ cứng rắn nhưng một mình bà vẫn không thể thay đổi cho cả xã hội, con người bà không thể thắng được số phận. Bà cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho quyền lợi hạnh phúc của người phụ nữ nhưng chính bà cũng đang phải chịu nỗi bất hanh. Tuy nhiên tiếng thơ ấy là một hiện tượng mới lạ trong thơ ca trung đại, là khúc ca mở đầu cho những nhà thơ đứng về phụ nữ, bảo vệ và đòi quyền hạnh phúc cho họ.

Bà đau đớn, xót xa than ngẫm cho hoàn cảnh, thân phận chính mình:

    “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

    Mảnh tình san sẻ tí con con”

Mùa xuân là mùa trăm hoa đua nở cũng là mùa của tuổi trẻ, thanh xuân người con gái. Mùa xuân của thiên nhiên đi rồi lại đến còn mùa xuân của con người thì đi mãi không trở về “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha”. Tuổi xuân năm lần bảy lượt qua đi nhưng mảnh tình chỉ có một tí mà vẫn phải san sẻ để rồi chỉ còn tí con con. Từng câu từng chữ thấm đẫm nỗi uất ức, xót xa, ấm ức bởi chưa bao giờ tình cảm được trọn vẹn chẳng khác gì ánh trăng trên trời cao kia đã xế khi chưa tròn. Nghệ thuật tăng tiếng “tí con con” được sử dụng thành công càng làm cho bi kịch của người phụ nữ càng thêm cao, một từ tí con con cực tả nỗi niềm chua xót ngán ngẩm của nhà thơ.

“Tự tình II” là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ lận đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn thi sĩ với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ và các từ láy “văng vẳng”, “con con” với nghệ thuật tăng tiến càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thẫm đượm cái ý cái tình của người phụ nữ có nhiều nét độc đáo, mới lạ trong nền thơ ca văn học dân tộc.

So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều

Đầu lòng hai ả tố nga,

    Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

    .......

    Êm đềm trướng rủ mành che,

    Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Bài văn mẫu

   Chị em Thúy Kiều là đoạn trích nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn, đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca tiếng Việt, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.

   Sau mấy câu tóm tắt về gia cảnh của vương viên ngoại, nhà thơ giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân:

    Đầu lòng hai ả tố nga,

    Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân…

    Êm đềm trướng rủ màn che,

    Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

   Bút pháp tả người trong đoạn trích này là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ văn cổ điển, lấy những nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở những nhà thơ khác, nếu theo cách tả này thì chân dung nhân vật thường chung chung, mờ nhạt. Song công thức ước lệ ấy dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường, khiến cho nhân vật trở nên sinh động.

   Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân trọng dành cho những người con gái đẹp: tố nga và khẳng định: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần).

   Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:

    Vân xem trang trọng khác vời,

    Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

    Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,

    Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

   Gương mật Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu, tươi tắn, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng hói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua, da nàng trắng đến mức tuyết cũng phải nhường. Dường như Tạo hoá đã ban cho Thúy Vân rất nhiều đặc ân mà nàng vẫn không bị ai ganh ghét và đố kị. Vẻ đẹp tràn đầy sức sống ấy báo trước cuộc đời Thúy Vân sau này sẽ yên ổn, vinh hoa. Nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ phu nhân.

   Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính, vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc mà Tạo hóa ban cho người phụ nữ; nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.

   Ngay từ câu đầu giới thiệu về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:

    Kiều càng sắc sảo mặn mà,

    So bề tài sắc lại là phần hơn.

   Thúy Vân đã đẹp khác người thường, Thúy Kiều lại hơn hẳn Vân cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều gây ấn tượng rất mạnh, ai được chiêm ngưỡng một lần ắt chẳng thể nào quên. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Thúy Vân mà nhấn mạnh vào vẻ đẹp của đôi mắt – cửa sổ tâm hồn:

    Làn thu thủy, nét xuân sơn,

    Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

   Mắt nàng long lanh như nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường. Nhan sắc của nàng nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen vì thua thắm, liễu phải hờn vì kém xanh. Tác giả đã đem hết tài năng nghệ thuật và tình cảm mến yêu, khâm phục để tả Thúy Kiều nhưng ông cũng có ý hé lộ cho người đọc thấy dự cảm bất an về tương lai của nàng. Theo thuyết tài mệnh tương đối khá phổ biến trong dân gian thời ấy thì phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó mà giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, ắt nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.

   Một điều đáng chú ý nữa là khi tả Thúy Vân, thi hào Nguyễn Du tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn tả Thúy Kiều thì ông nhấn mạnh nàng là người tài sắc vẹn toàn:

    Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

    Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

    Thông minh vốn sẵn tính trời,

    Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

    Cung thương làu bậc ngũ âm,

    Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

   Trong đời, hiếm có người con gái nào đa tài như Thúy Kiều, nhất là tài chơi hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Có sắc, có tài, Thúy Kiều lại có thêm tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được về số phận bất hạnh của mình nên đã sáng tác cung đàn bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng:

    Khúc nhà tay lựa nên chương,

    Một thiên "Bạc mệnh" lại càng não nhân.

   Bốn câu thơ cuối đoạn, tác giả nhận xét chung về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân và hoàn cảnh sống của họ:

    Phong lưu rất mực hồng quần,

    Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

    Êm đềm trướng rủ màn che,

    Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

   Những chi tiết trên chứng tỏ họ là con nhà nền nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp; đồng thời khẳng định phẩm hạnh trong trắng, cao quý của chị em Thúy Kiều.

   Đoạn trích chỉ có hai mươi bốn câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng thủ pháp ước lệ để miêu tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.

Nguồn: vietjack

Các bài học liên quan