Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 16:45:36


Mục lục
* * * * *

Phân tích đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác 

Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ "Y tông tâm lĩnh" gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo "Thượng kình kí sự" Thơ văn của Lãn Ồng nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.

   "Thượng kinh kí sự ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn "Vào phủ chúa Trịnh" trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.

   Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp "đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chìm kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương".

   Nơi cung cấm, hành lang "quanh co nối nhau liên tiếp", người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiôm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, "truyền báo rộn ràng".

   Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: "Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường". Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như "ngư phủ Đào nguyên thuở nào":

    "Cả trời Nam sang nhất là đây!

    Lầu từng gác vẽ tung mây,

    Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.

    Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,

    Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.!"

   Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thợ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!

   Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Đó là "Điếm Hậu mã quân túc trực" làm bên một cái hồ, cột và bao lơn "lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp", phía ngoài có những cây "lạ lùng", có những hòn đá "kì lạ". Nhà "Đại đường" còn gọi là "Quyển bồng". Là cái lầu cao và rộng, "cột đều sơn son thiếp vàng" gọi là "Gác tía", nơi Thế tử dùng "chè thuốc", nên gọi là "Phòng trà".

   Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi "chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghộ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang "khác hẳn người thường".

   Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ồng thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy".

   Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nộm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để "lạy bốn lạy" trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, "mặt phấn, màu áo đó". Cả một không gian "lấp lánh, hương hoa ngào ngạt". Thật đúng "Cả trời Nam sang nhất là đây!"

   Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm "Hậu mã" lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường "san mâm cơm cho ăn" nhưng "mâm vàng, chén bực, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ". Ông thầy thuốc mà danh tiếng "như sấm dộng" đã suy nghĩ và nói : "Tôi bảy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia".

   Chốn đế đô cung cấm là nơi "lính nghìn cửa vác dòng nghiêm nhặt". Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê - Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hoi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. "Cơm ngự thiện bữa nghìn quan" xưa nay đều thế! Tác giả "Thượng kinh kí sự" có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.

   Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì "ông mới nghe nói thôi", lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:

    "Quê mùa cung cấm chưa quen,

    Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!".

   Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bênh cho thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: "Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết". Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: "ơn vua kèm theo sấm sét!".

   Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc "cúi đầu" hoặc "liếc mắt nhìn". Lúc xem mạch thì "khúm núm" phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!

   Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: "Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao vê núi được", về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. "Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!"

   Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông "phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được". Cái lòng thành mà ồng nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc "phát tán mới xong", mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:

   "Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bối dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên..".

   Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu "Lãn Ông" thật giàu ý nghĩa: ông già lưòi, lười làm quan và biếng danh lợi.

   Đoạn văn "Vào phủ chúa Trịnh" thật hay và thú vị, ta cảm thấy như được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê - Trinh. Đoạn vãn cũng như toàn tác phẩm "Thượng kinh kí sự" vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.

   Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.

   Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hoá.

   "Vào phủ chúa Trịnh", đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.

Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh

“Vào phủ chúa Trịnh” được trích từ “Thương kinh kí sự” của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực cuộc sống trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán sâu sắc của tác phẩm.

    Trước hết đó là bức tranh về cuộc sống đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác – “vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết” vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác người thường”.

    Cảnh vật trong phủ chúa hết sức lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực “cả trời Nam sang nhất là đây”. Cách bài trí, trang trí trong phủ hết sức tráng lệ, cầu kì: “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, nhưng đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khung cảnh cực kì sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu có thể sánh nổi. Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi cuộc sống trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại đó đã có nhiều biến động, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín đáo phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.

    Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: “Tôi nghe chuyện than rằng: - Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng. Lại mừng thầm rằng mình đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh thành đạt….”. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này chính là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: “giàu sang như mây nổi” chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh bại vong.

    Không chỉ miêu tả khung cảnh quyền quý, xa hoa, tác giả còn cho thấy cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Vào phủ chúa, có tên đầy tớ chạy phía trước thét đường, cáng chạy như ngựa lồng, cho thấy nhịp độ hết sức nhanh chóng, khẩn trương. Đến phủ chúa để đi tới nơi khám bệnh cho thế tử phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi lần cửa cần phải có thẻ mới được đi tiếp. Các danh y chữa bệnh cho thế tử đều là những người tài giỏi, nổi tiếng ở sáu cung, hai viện ngày đêm túc trực, chờ sẵn để chữa bệnh cho thế tử. Thủ tục rườm rà, nghiêm ngặt, phải hết sức kính cẩn: Thế tử bị bệnh có đến 7,8 thầy thuốc phục dịch. Khi vào xem bệnh, tác giả - một cụ già - phải quỳ lạy thế tử - một đứa trẻ. Muốn xem thân hình của thế tử phải có một viên quan nội thành đến xin phép được cởi áo cho thế tử. Khám xong phải lạy 4 lạy mới được ra về. Trước khi được vào khám bệnh cho thế tử, Lê Hữu Trác đã được ngự bữa cơm sáng với: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại già” cuộc sống xa hoa quyền quý choán đầy phủ chúa từ nơi ở, vật dụng, quang cảnh cho đến đồ ăn thức uống. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa và sự lộng quyền của nhà chúa.

    Đặc biệt, ngòi bút hiện thực của tác giả còn được thể hiện trong việc miêu tả các chi tiết liên quan đến thế tử. Thế tử ngồi trên sập chỉ độ năm sáu tuổi, nhưng Lê Hữu Trác – một người già cả, phải lạy bốn lạy trước cậu bé này và còn được thế tử cười khen: “Ông này lạy khéo!”. Ngoài ra tác giả còn miêu tả hết sức kĩ lưỡng về thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trong căn phòng tối om không có cửa ngõ, phải qua năm sáu lần trướng gấm mới xuất hiện thế tử. Nơi ở của thế tử đều được sơn son thếp vàng, trên ghế bày đệm gấm, đây đều là những vật dụng đắt tiền. Qua ánh nến mờ ảo, Lê Hữu Trác nhận thấy “màu mặt phấn và màu áo đỏ”. Nơi ở của thế tử hế sức ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí và đây chính là nguyên nhân khiến thể trạng thêm phần ốm yếu. Một đứa bé đang độ tuổi ăn, tuổi chơi, đáng nhẽ phải được chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn, được hòa cùng thiên nhiên để phát triển một cách khỏe mạnh, thì thế tử Cán lại bị giam hãm, cầm tù nơi lầu son, gác tía với trướng rủ màn che thiếu sinh khí, ngột ngạt, chính cảnh tù túng đó đã khiến bệnh của thế tử ngày một nặng hơn: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mồm, thương tổn quá mức”. Chỉ bằng một vài nét phác họa, những câu miêu tả khách quan tác giả đã cho thấy hình ảnh thế tử Cán gầy gò, ốm yếu cả về cở thể lẫn ý chí, nghị lực.

    Để miêu tả hiện thực trong chủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã vận dụng khả nặng quan sát tinh tường, khung cảnh bài trí trong phủ chúa được miêu tả chi tiết kĩ lưỡng: quang cảnh thiên nhiên, sự vật, cung cách sinh hoạt, thế tử Cán. Không chỉ vậy sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, cùng những câu nhận xét, bình luận đã phô bày rõ hơn sự xa hoa trong phủ chúa. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai một cách nhẹ nhàng thể hiện thái độ của tác giả trước lối sống quyền quý đó.

    Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, nhưng với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và đầy đủ nhất hiện thực cuộc sống trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về sự suy vong tất yếu của nơi đây.

Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh

Lê Hữu Trác được biết đến là một danh y bậc nhất của thời trung đại. Ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi bật nhất ông để lại là “Thượng kinh kí sự”, vời ngòi bút miêu tả sắc sảo, không chỉ phơi bày hiện thực cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi phủ chúa, mà đằng sau đó ta có thấy sáng lên tấm lòng, nhân đức cao đẹp của một con người đại tài.

    “Thượng kinh kí sự” là tập kí sự được viết bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783. Tác phẩm ra đời nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm cho mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm này đã phơi bày quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa quyền uy, đầy thế lực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” tuy chỉ là một trích đoạn ngắn ngủi nhưng đã phần nào nói lên nhân cách, vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả: Coi thường lợi danh và là người thầy thuốc lương thiện, có y đức.

    Khi đang ở quê nhà Hương Sơn - Hà Tĩnh, sáng sớm tinh mơ đã có người đến gõ cửa rất gấp triệu ông vào cung bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh cho thế tử Cán, ông ăn vận chỉnh tề và theo họ đến kinh đô. Trước khung cảnh phủ chúa nguy nga, sa hoa khiến cho một người vốn “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” cũng phải ngỡ ngàng “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường”. Những gì ông thấy trên đường vào nơi thâm cung khiến ông không khỏi ngỡ ngàng, với cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua sắc ở khắp mọi nơi, quang cảnh thực khác thường. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Hữu Trác là lại có nhã hứng ngâm thơ, mà qua những vần thơ ấy ông thể hiện sự giàu sang khác thường, một điềm báo chẳng lành ở nơi phủ chúa: Cả trời nam sang nhất là đây. Bao nhiều cổ vật, chân cầm dị thú đều tập trung cả ở nhà phủ chúa, khiến cho những con người “quê mùa” như tác giả không khỏi ngỡ ngàng: “Quê mùa, cung cấm chưa quen/ Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.

    Sự ngỡ ngàng, bất ngờ đó ngày một tăng lên khi ông đi sâu vào trong phủ chúa, những cái điếm lớn, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách xinh đẹp, hay những cái cây và hòn đá lạ lùng mà nhân gian chưa từng gặp đều tụ hội ở nơi phủ chúa. Những đồ vật được dùng trong phủ chúa đều là những đồ vật giá trị, sơn son thếp vàng: đồ nghi trượng, sập, võng điều,… cung cách sinh hoạt hết sức xa hoa. Nhìn những đồ vật đó tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Hành động đó cho thấy tính cách coi thường danh lợi của tác giả. Trước sự sa hoa, quyền quý ở nơi phủ chúa ông không sợ hãi, không ham mê mà coi thường tất cả phường danh lợi đó. Ta có thể thấy trong đoạn trích này, giọng điệu mỉa mai, châm biếm của tác giả được ẩn dấu rất kĩ lưỡng, đó chỉ là cái cười kểnh rất nhẹ, rất kín đáo mà ta khó lòng nhận ra. Những lời nhận xét, bình luận mà dường như không phải: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” hay “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Qua các lời nhận xét đó đã cho thấy thái độ coi thường danh lợi, một cách rất kín đáo Lê Hữu Trác đã cho người đọc thấy được cốt cách cao đẹp của bản thân.

    Không chỉ vậy, ông còn là một người thẳng thắn, không sợ uy quyền. Trước khi trả lời câu hỏi của Quan Chánh đường, Lê Hữu Trác đã được quan Chánh đường rào đón trước về cách chữa bệnh nên “dùng thức thuốc công phạt” để tác giả liệu điều kê thuốc theo đúng ý quan Chánh đường. Nhưng trước những lời nói đó, Lê Hữu Trác không hề sợ hãi, bằng sự chuẩn đoán của bản thân, ông vẫn kê đơn thuốc theo những gì mình cho là tốt nhất cho người bệnh: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hai, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Sự bộc trực, thẳng thắn này một phần xuất phát từ sự coi thường danh lợi của tác giả, đồng thời cũng là từ tấm lòng y đức, lương thiên của ông.

    Bên cạnh đó, qua đoạn trích này ta còn thấy Lê Hữu Trác là một người thân thuốc có y đức, có lương tâm với người bệnh. Vốn không cầu danh lợi, ông rời xa chốn kinh thành về tận Hương Sơn – Hà Tĩnh để bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, khi được triệu vào cung chữa bệnh ông cũng mang hết tài năng và kiến thức của bản thân để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Nhưng sau khi khám xong, trong ông bị hai mâu thuẫn giằng xé, là chữa bệnh hay không chữa bệnh cho thế tử. Nếu chữa bệnh khỏi cho thế tử lại sợ “mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không sai về núi được nữa. Chi bằng ta cứ dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Nếu làm như vậy ông sẽ được thỏa mãn cái thú điền viên, được chữa bệnh cho người nghèo và không bị phường lợi danh cuốn vào. Nhưng với y đức vốn có của một người thầy thuốc liệu ông có thể làm được như vậy hay không? Rất nhanh sau đó ông đã tự đưa ra câu trả lời cho chính mình: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Trước hết ông đưa ra lí do muốn tiếp nối lòng trung của cha ông, tổ tiên để không phụ lại công ơn cha ông để lại, nhưng đằng sau đó còn là cả tấm lòng, là cả nhân cách y đức sáng ngời của ông. Trước người bệnh, không kể đó là ai ông chỉ có một lòng chữa và giúp họ khỏi bệnh. Tấm lòng cao cả, y đức hơn người đó đã giúp ông chiến thắng những mong muốn, nhu cầu của bản thân. Lê Hữu Trác quả là con người giàu lòng y đức và thương người.

    Chỉ trong một trích đoạn ngắn, nhưng người đọc đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông là người coi thường danh lợi, phú quý, là một vị lương y tài giỏi, nhân đức.

Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác

Thượng kinh kí sự của Lãn Ông Lê Hữu Trác là một kiệt tác độc đáo trong văn học cổ Việt Nam. Quang cảnh vàng son nơi phủ chúa, hình ảnh "con Trời", hình ảnh vị thầy thuốc đã để lại bao ấn tượng vô cùng sâu sắc trong tâm hồn mỗi chúng ta khi đọc "Vào phủ chúa Trịnh".

   Quang cảnh phủ chúa được vệ sĩ canh gác cẩn mật, nghiêm ngặt, vô cùng đẹp đẽ, tráng lệ. Vườn ngự uyển "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió dưa thoang thoảng mùi hương". Những dãy hành lang thì "quanh co nôi nhau liên tiếp", người giữ cửa "truyền báo rộn ràng"; người có viộc quan "qua lại như mắc cửi"; vệ sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm ngặt, "ai ra vào phải có thẻ". Cảnh phủ chúa làm cho Lê Hữu Trác ngạc nhiên, xúc động, nghĩ bụng: "Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường". Bài thơ thất ngôn bát cú mà tác giả ngâm lên đã làm nổi bật cảnh giàu sang của vua chúa thời Lê -Trịnh.

   Trong phủ chúa có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi cung điện có một cái tên riêng nghe rất lạ tai. Đó là "Hậu mã quân túc trực", kiểu cách thật là "xinh đẹp", cột và bao lơn "lượn vòng", điếm làm bên một cái hồ, có những cái cây "lạ lùng", những hòn non bộ "kì lạ". Đó là nhà "Đại đường" gọi là "Quyển bồng"; "Gác tía" được gọi là "phòng trà" vì thế tử "dùng trà" ờ đấy. Lầu cao và rộng. Có hai cái kiệu để vua chúa đi. Sập thếp vàng, võng diễu, đồ nghi trượng và các cột đểu sơn son thếp vàng; bàn ghế, đồ đạc là những thứ cực kì sang trọng "nhân gian chưa từng thấy".

   Nhiều cửa, nhiều trướng gấm "tối om". Khổng khí trang nghiêm bao trùm "phòng trà" nơi "Gác tía". Đèn sáp chiếu sáng, hương hoa ngào ngạt. Sau tấm màn là nơi "phòng trà", các cung nhân "mặt phấn và màu áo đỏ" đứng "xúm xít". Khồng một tiếng nói to. Chỉ có người "hỏi nhỏ", "nhìn nhau". Các vị lương y của sáu cung, hai viện thì ngày đêm "chầu chực" hầu trà. Khi quan Chánh đường xuất hiện tại "phòng trà" thì những người có mặt "tất cả đều đứng dậy", quan chánh đường "ngồi ghế trên", còn mọi người "ngồi theo thứ tự' đúng nghi lễ nơi phủ chúa.

    Một vài chi tiết khá "đắt" nêu bật giá trị hiện thực của tác phẩm. Ngoài quang cảnh cung cấm, ta tò mò tìm hiểu con bệnh. Đó là thế tử Cán, một đứa bé độ năm sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ ngồi trên sập sơn son thếp vàng, có mấy người đứng hầu hạ hai bên. Khi được lệnh quan Chánh đường, Lãn Ông mới được lạy con bệnh - con Trời - bốn lạy. Câu nói của con bệnh thật ngộ nghĩnh mà hồn nhiên: "Ông này lạy khéo". Nơi cung cấm có biết bao cung nhân xinh đẹp đứng xúm xít sau màn là "mặt phấn và màu áo đỏ". Bữa cơm mà Lãn Ông được ăn tại điếm "Hậu mã quân túc trực", tuy chỉ được quan Chánh đường "san mâm cơm" cho ăn, nhưng vị đại danh y bao giờ có thể quên được. "Mâm vàng, chén bạc, đồ ân toàn là của ngon vật lạ" khiến cho Lãn Ông phải thốt lên: "Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Đúng là "Cơm ngự thiện bữa nghìn quan – Làm cho dân hết, dân tàn mới thôi".

   Đoạn văn "Vào phủ chúa Trịnh" có cảnh trung tâm là cảnh Lê Hữu Trác khám bệnh, kê đơn thuốc cho vị "con Trời". Sau bốn lạy và được phép của quan Chánh đường, Lê Hữu Trác được "khúm núm đến trước sập xem mạch". Sau khi có tiếng nói nhỏ trong màn trướng, Lãn Ông mới được "xem kĩ tất cả" lưng, chân tay một lượt. Vị đại danh y lại lạy con bệnh bốn lạy sau khi quan Chánh đường truyén mệnh. Lãn Ông được một tiểu hoàng môn đưa ra ngoài chờ ở "phòng trà".

   Chi tiết miêu tả này là khá "đắt", góp phần làm nổi bật sự "khúm núm" của vị thầy thuốc lúc xem mạch và kê đơn. Đó là cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm đặt bên cạnh cái sập nơi thế tử Cán ngồi. Ai thường ngồi trên cái ghế rồng đó? Đó là "da cọp" chứ chơi đâu!

   Con bệnh "bệnh mắc đă lâu, tỉnh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chán gày gò", "nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức". Trong lúc quan Chánh đường và các vị lương y sáu cung hai viện chỉ lo "dùng thứ thuốc công phạt", thì Lãn Ông lại cho rằng "bệnh thế này không bổ thì không được". Cuộc đấu tranh giữa nhàn và danh lợi, về y đức của Lãn Ồng diẽn ra giằng co. Nếu làm "cố kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi dược". "Dùng thứ phương thuốc hoà hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu". Cuộc tự đấu tranh tư tưỏng diễn ra căng thẳng. Y đức đã nhắc nhở Lãn Ông "phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ồng mình", vì thế ông phải "nghĩ lại một hồi" rồi mới nói với quan Chánh đường, phải "giải thích mãi" trước khi kê đơn. Đâu phải vì con bệnh là thế tử, mà sâu xa hơn nữa là tấm lòng "lương y như từ mẫu". Bài học vẻ sống nhàn, coi thường danh lợi, đặt y đức lên hàng đầu là bài học giá trị nhân đạo mà Lãn Ông đã nêu ra và để lại cho đời. Ta chợt nhớ vần thơ của Nguyền Đình Chiểu trong "Ngư Tiều y thuật vấn đáp":

    Đứa ăn mày cũng trời sinh,

    Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không.

   Lãn Ông đã độc lập suy nghĩ, không hề bị ràng buộc bởi ai, dù đó là quan Chánh đưcmg. Chi tiết quan Chánh đường "cố ỷ ngại" sau khi xem đơn thuốc của Lãn Ông kê cho thê tử đã thể hiện tinh thần độc lập suy nghĩ, giữ vững chủ kiến và để cao y đức của người thầy thuốc chân chính tài giỏi.

   Đoạn "Vào phủ chúa Trịnh" là trang kí sự rất đặc sắc và độc đáo. Tác giả kết hợp tả và kể, lồng cảm xúc vào ý nghĩ, tạo nên một giọng văn thâm trầm có nhiều chi tiết cảm động, chân thực, giàu giá trị hiện thực. Quang cảnh tráng lệ của phủ chúa, hình ảnh con bệnh, quan Chánh đường, mấy cung nhân, các vị thầy thuốc của sáu cung hai viện, bữa cơm ăn tại điếm "Hậu mã quân túc trực"y cảnh xem bệnh và kê đơn... tất cả đều chân thực và có giá trị tư liệu lịch sử. Lãn Ông là một tao nhân, bài thơ của ông ngâm khi ngắm cảnh vàng son tráng lệ nơi phủ chúa cho thấy vị danh y này rất tài hoa. Những bài thơ trong "Thượng kinh kí sự" đã tạo nên tính trữ tình độc đáo của áng văn chương mang tầm vóc cổ điển, càng đọc càng thú vị.

Nguồn: vietjack

Các bài học liên quan