Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Chí Phèo

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 8:59:59


Mục lục
* * * * *

Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao 

Nam Cao cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nhờ có ông và các phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng. Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài người nông dân là nổi bật hơn cả. Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung.

    Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này.

    Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng, nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất.

    Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen, phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiên đã trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại.

    Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo. Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhả Tự Lãng, trên đường về nhà thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn nghe, không còn để ý nữa. Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc đông và biết ơn. Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.

    Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên với Chí và bị gạt phát đi. Thị Nở - một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc, hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chị là vô cũng, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn. Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.

    Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị Nợ là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí. Thị cũng như bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi bật nhan vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, quá đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là người đẩy Chí Phèo vào bị kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến.

    Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt Nam bị tha hóa trước cách mạng ; nghệ thuật phân tích diễn biên tâm lí nhân vật hợp lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật.

    Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân tính, đã đầy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm thương với số phận người nông dân bất hạnh.

Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đề tài người nông dân. Nhân vật của ông chủ yếu là những người nghèo khó, cùng cực, họ bị áp bức bất công, bị chà đạp về cả thể xác và nhân phẩm. Chắc hẳn chúng ta không thể quên Chí Phèo_nhân vật điển hình cho một giai cấp, đại diện cho người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Đây là nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc làm nên tên tuổi của tác giả để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Chí cũng giống như anh cu Lộ trong tác phẩm “Tư cách mõ” hiền lành, chất phác, bản tính vốn lương thiện nhưng bị xã hội, bị giai cấp thống trị chèn ép, đẩy đến mức đường cùng phải bán linh hồn và nhân phẩm cho quỷ dữ. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn con người ấy vẫn có những phút giây khao khát được hoàn lương, được sống đúng nghĩa. Cuộc đời Chí trải qua hai giai đoạn là trước và sau khi gặp thị Nở diễn biến tâm lí, suy nghĩ và hành động của nhân vật được Nam Cao thể hiện xuất sắc dưới ngòi bút hiện thực.

Trước khi gặp thị Nở cuộc đời của hắn vừa bước chân ra khỏi nhà tù thực dân trở về làng là một kẻ lưu manh tha hóa, mất hết nhân hình lẫn nhân tính, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Những tháng ngày ấy Chí bị phần con lất át phần người ngoại hình bên ngoài đúng chất của một thằng đầu bò, du côn, lưu manh với cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mắt gườm gườm, người thì xăm trổ đầy mình. Hắn khiến cho người ta sợ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chí Phèo được Nam Cao khắc họa vẻ bên ngoài thật ấn tượng, tỉ mỉ từ đầu đến chân để hắn hiện lên thật dị dạng không giống ai. Không chỉ vậy tính cách, nhân phẩm của hắn cũng đã bị bóp méo. Chí trượt dài trên cái dốc tha hóa, kể từ khi về làng lúc nào cũng trong tình trạng say xỉn mà chưa bao giờ tỉnh, bao giờ cũng thế cứ say là hắn chửi và có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai khiến. “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những việc hắn làm là rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người khiến cho “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua”. Kể từ đó Chí sống trong cô đơn cô độc giữa dòng đời tấp nập, giữa bao người ngược xuôi nhưng tuyệt nhiên không một ai coi Chí là người.

Tưởng rằng con quỷ dữ cứ sống mãi kiếp thú vật nhưng Nam Cao đã để cho Chí hồi sinh sau khi gặp thị Nở. Đây là đoạn văn nhân đạo nhất trong tác phẩm mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Chí đã được thức tỉnh nhờ bát cháo hành và tình cảm chân thành, sự quan tâm săn sóc của thị Nở. Buổi sáng hôm ấy thức dậy Chí có một sự thay đổi rõ rệt trong suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm”. Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”… Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh để nghe thấy tiếng gọi tha thiết của sự sống.

Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của hắn từng ước mơ về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát của anh canh điền hiền lành chất phác. Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận nhức về ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người. Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi! hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” Nhà văn đã cho ta thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở. Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những tháng ngày đen tối và tội lỗi.

Cuộc đời lại không được như mong muốn tưởng rằng đã tìm thấy hơi cháo hành tình yêu của riêng mình nhưng một lần nữa bi kịch lại ập đến, hắn bị thị Nở từ chối, bị cả làng Vũ Đại cự tuyệt quyền làm người. Mặc dù Chí Phèo đã cố gắng hoàn lương, cố gắng để hòa nhập với mọi người nhưng chính định kiến xã hội đại diện là bà cô thị Nở khi nghe thị xin ý kiến về chuyện tình duyên của đôi lứa bà đã dùng tất cả những lời lẽ cay độc để xỉa xói thị, bà thấy nhục cho ông cha nhà bà để rồi thị nghe lời bà cô mà quay lưng lại với Chí. Cánh cửa hoàn lương vừa hé mở đã bị đóng sầm lại không một lần được mở ra nữa bởi duy nhất chỉ có thị quan tâm, cảm thông, chia sẻ với hắn, bao nhiêu hy vọng giờ đây chỉ còn là sự tuyệt vọng. Căm phẫn được đẩy lên đến tột cùng, nhận thức được về cá nhân ngày càng mãnh liệt thôi thúc Chí đi đến nhà Bá Kiến cầm dao đâm chết hắn rồi tự sát. Chí đã nhận thức được kẻ thù thực sự của mình là Bá Kiến. Tiếng đòi làm người lương thiện thống thiết kêu lên trước khi hắn giết cụ Bá còn vang vọng đó đây mỗi khi ta nhắc đến cái tên Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”. Cái chết là lựa chọn cuối cùng cho sự giải thoát của Chí, đó là cách tốt nhất mà nhà văn dành tấm lòng nhân đạo của mình cho nhân vật. Không chấp nhận được kiếp sống thú vật buộc phải chết để không phạm phải sai lầm, để hy vọng ở một cánh cửa mới Chí có thể sống tốt hơn. Cuộc đời của Chí phản ánh mâu thuẫn giai cấp khốc liệt ở nông thôn Việt Nam không thể giải hòa được, mâu thuẫn ấy càng bị dồn nén xuống tận cùng thì càng dễ bùng nổ và bắt buộc phải được giải quyết theo hướng tích cực nhất.

Như vậy dưới ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình của Nam Cao, kết hợp với nghệ thuật trần thuật linh hoạt, sinh động, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân làm cho nhân vật Chí Phèo hiện lên với đầy đủ ngoại hình, tính cách và có diễn biến tâm lí phức tạp. Số phận của Chí Phèo đại diện tiêu biểu cho hoàn cảnh người người nông dân trước cách mạng tháng Tám cũng là cảnh tỉnh cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không thay đổi thì không biết sẽ còn bao nhiêu Chí Phèo con chuẩn bị ra đời. Hình ảnh cái lò gạch cũ và cái nhìn xuống bụng của thị Nở ở cuối chuyện minh chứng cho điều đó. Chí Phèo cùng với tác phẩm cùng tên nhân vật có đóng góp to lớn cho gương mặt và số phận của người nông dân Việt Nam làm nên tên tuổi của Nam Cao.

Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở 

Tình yêu là là ngọn nguồn của mọi hạnh phúc cũng như khổ đau. Tình yêu còn giúp con người trở nên mạnh mẽ, lạc quan, giúp ta hướng thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao tuy chuyện tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở chỉ là một lát cắt nhỏ nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là một khởi đầu mới cho Chí, đem Chí trở về cuộc sống của một con người lương thiện mà lâu nay Chí đánh mất.

    Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, nghèo khổ và bất hạnh. Từ khi lọt lòng đã bị mẹ bỏ rơi, Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người làng Vũ Đại. Lớn lên Chí là một thanh niên khỏe mạnh, làm thuê ở nhà Bá Kiến. Vì bà ba dâm đãng hãm hại, Chí bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân và bị đánh mất nhân hình và nhân tính của mình, ra tù lại trở thành tay sai cho Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng khi thị Nở xuất hiện, cuộc đời Chí được lật sang một trang mới, đẹp đẽ, hạnh phúc, mà cũng đầy khổ đau, bất hạnh.

    Thị Nở sống cùng bà cô. Thị là một người phụ nữ quá lứa, sinh ra trong mả hủi, tính dở hơi. Không chỉ vậy thị xấu ma chê quỷ hờn, nên đã nhiều tuổi mà chẳng có được hạnh phúc cho riêng mình.

    Vẫn như mọi lần, Chí uống rượu say, trên đường trở về nhà, Chí thấy trong người khó chịu nên đã ra sông tắm. Còn thị Nở đi gánh nước, mệt nên nằm ngủ ngay cạnh bờ sông. Bởi vậy, đã tạo nên cuộc gặp gỡ tiền định này. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi con người, suy nghĩ của Chí Phèo.

    Cuộc sống của Chí Phèo đã thực sự thay đổi, sau bao nhiêu ngày chỉ biết đến say sưa, chỉ biết đến rạch mặt ăn vạ thì sau đêm gặp gỡ với Thị Nở đây là lần đầu tiên Chí tỉnh. Lần đầu tiên Chí nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra sự tồn tại của mình và tương lai tăm tối của bản thân. Khi Chí Phèo mở mắt ra hì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe tiếng chim kêu ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi lờ mờ […] chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Sự thức tỉnh của Chí Phèo bắt nguồn trước hết phải là từ sự tỉnh rượu, từ tỉnh rượu hắn mới tỉnh ngộ, mới nhận ra nhiều điều. Chí nhận thấy những âm thanh vui vẻ, ríu rít xung quanh mình là tiếng chim, tiếng của những người đi chợ. Âm thanh quen thuộc quá, mà bấy lâu nay trong cơn say triền miên Chí không hề nhận thấy. Hắn nhớ về ngày trước, nhớ về anh nông dân lương thiện, với những mơ ước thật giản dị về một gia đình ấm cúng và cuộc sống lao động cần mẫn. Nhưng chính hắn cũng phải tự giật mình về hoàn cảnh hiện tại của bản thân: Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao […] Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này con đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Ngòi bút của Nam Cao đã lách sâu vào tâm hồn của Chí để nhận ra những thay đổi dù là nhỏ bé nhất.

    Không chỉ vậy, Chí Phèo còn xúc động sâu sắc trước sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở dành cho mình. Thấy bát cháo hành Thị Nở đưa cho mình Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Chí Phèo xúc động đến tột cùng khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ một người khác. Đây cũng là lần đầu tiên ta thấy người vẫn bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại khóc. Đó là giọt nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc khi được nhận hơi ấm tình người, bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho , những thứ xưa nay hắn có được chỉ là do cướp giật, hắn chưa được ai quan tâm, chăm sóc bao giờ. Chí nhớ về bà ba và nỗi nhục khi phải bóp chân cho bà ba. Chính bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn phải bâng khuâng, phải suy nghĩ nhiều. Ta có thể thấy rằng, phần nhân tính bị chìm khuất bao lâu nay của Chí nay đã dần dần xuất hiện trở lại do nhận được tình yêu thương của Thị Nở. Với việc phân tích diễn biến tâm lí hết sức sâu sắc và hợp lí, Nam Cao đã ngầm khẳng định bản chất lương thiện của người nông chỉ bị vùi lấp bởi những độc ác, xấu xa của cuộc sống, nó sẽ ngay lập tức được khơi dậy khi có điều kiện phù hợp.

    Cuộc gặp gỡ với Thị Nở còn khơi dậy niềm hi vọng trong Chí Phèo. Niềm hi vọng được làm người lương thiện : Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được…. . Khát vọng làm người lương thiện của Chí thật chính đáng, hợp lí khi mà nhân tính của Chí đã quay trở lại. Bởi vậy, Chí đã đề nghị với Thị Nở sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Năm ngày đó Chí sống trong sung sướng, hạnh phúc, đến ngày thứ sáu Thị Nở về xin phép bà cô và đó cũng là lúc khởi phát bi kịch. Sau những lời bà cô dè bủi và nhất quyết không cho lấy Chí, Thị Nở sang nhà Chí Phèo nói hết những lời bà cô nói và quay về nhà, trước sự tuyệt vọng tột cùng của Chí. Chí Phèo lấy rượu uống, càng uống lại càng tỉnh, càng đau đớn, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Đỉnh điểm của sự phẫn uất và tuyệt vọng Chí vác dao với ý định giết cả nhà Thị Nở, nhưng lại quen chân sang nhà Bá Kiến. Chí Phèo giết chết Bá Kiến và tự kết liễu mình. Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn, muốn làm người lương thiện nhưng bị cự tuyệt. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực nửa phong kiến đương thời.

    Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa quan trọng với nhân vật Chí Phèo. Về nội dung, Thị Nở xuất hiện góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm và làm nổi bật chủ đề tác phẩm: Thị Nở đã giúp Chí Phèo hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của Nam Cao; nhưng chính Thị cũng đẩy Chí vào bi kịch, qua đó tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến. Về nghệ thuật, Thị Nở giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời tình huống gặp gỡ này cũng giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách, tâm hồn của nhân vật trung tâm.

    Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Nam Cao đã cho thấy sự biến đổi trong nhận thức của Chí Phèo, đó là sự phục sinh của nhân tính. Nhưng đồng thời cũng cho thấy bi kịch đau đớn của Chí khi bị cự tuyệt làm người, cự tuyệt về cuộc sống lương thiện.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo 

Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyện quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.

    Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt, phẫn uất đến vậy ? Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về, hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không hần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra. Thành thử ra chỉ có tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.

    Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả uống lươn mang về nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi… (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời Chí đã là một bi kịch.

    Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến, Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông. Bi kịch thứ hai đổ ấp xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gờm,… khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác […] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt […] Chưa bao giờ hắn tỉnh […] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.

    Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ,… âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.

    Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng. Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng : đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.

    Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.

Phân tích quá trình bị tha hóa của nhân vật Chí Phèo

Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông không chỉ chứa đựng làm lượng hiện thực lớn mà còn sâu sắc về nhân đạo. Trong đời văn, ông để lại nhiều tác phẩm, nổi bật nhất là tác phẩm Chí Phèo viết về đề tài người nông dân. Tác phẩm vừa cho thấy sự tha hóa vừa cho thấy sự thức tỉnh của họ. Cho nên tác phẩm chứa được giá trị nhân văn, nhân đạo to lớn.

    Trước hết về quá trình tha hóa của Chí Phèo được Nam Cao mô tả hết sức logic và chi tiết : Chí Phèo từ người nông dân lương thiện, trở thành kẻ lưu manh và cuối cùng là con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

    Chí Phèo vốn là một đứa con hoang, bị mẹ bỏ rơi ở lò gạch cũ ngay từ khi mới sinh ra. Hắn lớn lên bơ vơ, đi ở hết nhà này đến nhà khác. Trưởng thành là một thanh niên cường tráng, Chí làm canh điền cho Bá Kiến – một cường hào trong vùng, nổi tiếng độc ác, nham hiểm. Bấy giờ Chí là một người lương thiện, hiền như đất và là người giàu lòng tự trọng. Bà ba bắt bóp chân hắn chỉ thấy nhục mà không hề thích thú. Bấy giờ mơ ước của Chí thật giản dị, nhỏ bé : chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Tuy nhiên, trong một lần Ba Kiến nổi cơn ghen vu vớ đã khiến Chí bị bắt vào tù. Nhà tù thực dân đã biến một người lương thiện trở thành một kẻ khác hắn, Chí rơi vào quá trình tha hóa, khi phần người bị nhà tù thực dân giết chết, tạo tác nên một tên lưu manh với hình hài gớm giếc. Bảy, tám năm ở tù đã khiến Chí biến đổi về nhân hình: cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, hắn mặc chiếc quần nái đen, phanh trước ngực là những hình xăm trổ. Ai nhìn thấy hắn cũng xa lánh, những lời hắn chửi mọi người vẫn luôn tự nhủ chắc nó chừa mình ra. Hắn làm tan nát biết bao gia đình, hắn sẵn sàng chửi bớt, đốt quán, rạch mặt ăn vạ,.. Tất cả mọi người đều xa lánh hắn.

    Không chỉ dừng lại là một kẻ lưu manh, dưới bàn tay quỷ quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo còn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bá Kiến đã từng bước một biến Chí Phèo thành công cụ giúp hắn gây thêm tội ác, chỉ cần Chí Phèo có hơi men trong người thì bất cứ việc gì hắn cũng có thể làm. Hắn tác quái cho bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổi bao nhiêu hạnh phúc… . Chí Phèo trượt dài trong vũng bùn tha hóa, tự tay Chí Phèo đã hủy hoại cả nhân hình và nhân tính của chính mình. Với quá trình tha hóa của Chí Phèo Nam Cao đã vạch trần bộ mặt độc ác, nham hiểm, nhẫn tâm của bọn địa chủ cường hào ở nông thôn, của nhà thù thực dân đã hủy hoại cuộc đời của một con người, đã đẩy Chí vào con đường lưu manh, tha hóa.

    Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, thì tác phẩm của Nam Cao lại không thành công và có giá trị sâu sắc đến vậy. Nam Cao đã tiếp tục dùng con mắt tin yêu của mình để nhận thấy bản chất lương thiện ẩn sâu bên trong lốt quỷ dữ kia. Sau đêm gặp gỡ với thị Nở, sáng tỉnh dậy lần đầu tiên sau khi ra tù Chí mới lắng lòng cảm nhận âm thanh của cuộc sống : tiếng chim hoát, tiếng người đi chợ,… những âm thanh vui vẻ đó đã đánh thức, kéo hắn ra khỏi chuỗi ngày dài trong u mê, tăm tối. Nhắc Chí nhớ về ngày trước và giúp Chí nhận ra sự thể thảm của bản thân trong hiện tại và tương lại là sự đói rét và cô độc. Sự nhận thức ấy chính là mốc đánh dấu sự thức tỉnh ý thức, nhân tính trong con người Chí.

    Để phần người ấy có thể thực sự trỗi dậy, sống lại còn phải cần đến một chất xúc tác quan trọng hơn nữa, đó chính là tình yêu thương thị Nở dành cho Chí Phèo. Chỉ là một bát cháo giản dị, nhưng Chí Phèo đi từ ngạ nhiên, đấy xúc động, đến hạnh phúc, bởi đời Chí Phèo chưa được ai cho cái gì bao giờ, và hắn cũng chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Bát cháo hành đã đánh thức trong Chí khát khao lành mạnh, chân chính: Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao và Chí gửi gắm mọi niềm tin vào thị Nở, đó sẽ là người mở đường cho Chí quay về hòa nhập với cộng đồng. Quả thật bằng sự yêu thương chân thành, mà thật giản dị cũng có thể cảm hóa một con người tưởng như đã ở đáy của sự tha hóa. Đó là niềm tin của Nam Cao vào sức mạnh cảm hóa của con người bằng tình yêu thương và sự chân thành.

    Nhưng sự xuất hiện của thị Nở chỉ như cầu vồng sau mưa, niềm tin tưởng của Chí không được bao lâu thì bị dập tắt hoàn toàn, khi Chí bị thị Nở cự tuyệt. Chí Phèo bấy giờ mới cay đắng nhận ra khoong thể làm mất đi những vết sẹo trên mặt và cũng không thể làm người lương thiện được nữa. Chí Phèo ý thức sâu sắc bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình. Không còn con đường nào khác, hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu chính mình. Cái chết ấy là sự hủy diệt con quỷ ở nhân hình và để giữ lại phần nhân tính trong sâu thẳm Chí Phèo. Đồng thời cái chết của Chí Phèo cũng cho thấy khao khát mãnh liệt của người nông dân bị tha hóa muốn trở về làm người lương thiện.

    Quá trình tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo cho thấy giá trị hiện thực nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Vừa là tiếng nói tố cáo đanh thép xã hội vô nhân đạo, vừa là sự cảm thương cho số phận của những người nông dân lương thiện khi bị đẩy vào bước đường cùng. Đồng thời, thể hiện quá trình tha hóa của nhân vật cũng cho thấy nội lực sáng tạo nghệ thuật già dặn, cây bút sắc sảo, tạo nên một hình tượng nhân vật đa dang, nhiều chiều, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo

Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tâm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

    Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Cái xấu của Thị Nở đã đạt điển hình, có thể coi như một mẫu mực về cái xấu, trong cuộc sống này có lẽ ít ai lại có thể xấu đến như vậy. Chính bởi vẻ ngoài quá xấu xí, tính tình lại dởi hơi, sống trong gia đình là mả hủi nên Thị Nở không có cơ hội để tìm kiến hạnh phúc cho riêng mình. Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.

    Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh. Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng…. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”. Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nợi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.

    Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bao cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đâu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay « đàn bà ».

    Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị. Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn : ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi. Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính lá người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ánh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.

    Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu truyện phát triển.

    Bằng những chi tiết nghệ thuật đắc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.

Cảm nhận về chi tiết bát cháo hành trong truyện ngắn Chí Phèo 

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Nhưng bên cạnh đó, để tạo nên thành công cho tác phẩm, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về phương diện nghệ thuật. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo.

    Chí Phèo vốn là một đứa trẻ mồ côi, lớn lên là một anh nông dân lương thiện, có những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ. Nhưng vì sự ghen tuông của Bá Kiến khi bắt gặp Chí bóp chân cho bà ba nên Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân bảy, tám năm. Nhà tù thực dân đã nhào nặn ra một Chí Phèo với ngoại hình gớm giếc: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, trên người đầy những hình xăm trổ và lấy nghề rạch mặt ăn vạ để sống. Trên mặt hắn là những vết sẹo dài, lằn sâu không gì có thể xóa bỏ được. Chí đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến làm cho tha hóa về nhân hình và nhân tính.

    Trong một lần Chí Phèo đi uống rượu từ nhà Tư Lãng trở về, hắn không về thẳng nhà như mọi lần mà ra bờ sông tắm. Cũng chính lúc ấy, Chí nhìn thấy Thị Nở đang nằm ở gốc chuối. Bất chấp những lời kêu la của Thị Nở, trong khung cảnh của đêm trăng sáng giữa Chí Phèo và Thị Nở đã nảy sinh mối tình đẹp đẽ, nhưng chỉ vẻn vẹn trong năm ngày. Nửa đêm hôm ấy, Chí Phèo bị cảm nặng, Thị Nở dìu Chí vào lều và sáng hôm sau mang cho Chí một bát cháo lớn với ý nghĩ: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành, ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà … . Trong ý nghĩ ấy không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình thương, sự quan tâm, lo lắng rất đỗi chân thành giữa con người với con người. Chi tiết bát cháo hành chứa đựng nhiều ý nghĩa, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Đối với Thị Nở, bát cháo hành thể hiện ý thức trách nhiệm của Thị Nở với Chí Phèo: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau . Nhưng không chỉ vậy, bát cháo còn là tình yêu thương chân thành, thật lòng của Thị Nở dành cho Chí Phèo: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Như vậy vừa xuất phát từ trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa xuất phát từ tình yêu thương, Thị Nở đã đem bát cháo đến cho Chí Phèo.

    Đối với Chí Phèo, trước hết nó là bát cháo giúp hắn giải cảm, giúp hắn vượt qua trận ốm. Nhưng nếu bát cháo hành chỉ có ý nghĩa như vậy thôi thì nó đã không xứng danh là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Bát cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh, đi từ cõi quên trở về cõi nhớ, giúp Chí giải độc tâm hồn, dần lấy lại phần nhân tính trong mình. Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt, đó là sự xúc động tột cùng của Chí khi lần đầu tiên trong đời nhận được sự quan tâm, săn sóc từ một người khác, mà đây lại là một người đàn bà. Từ trước đến nay hắn chưa bao giờ tự nhiên có cái gì, mọi thứ đều do dọa nạt, cướp giật mà có. Từ đó cũng cho thấy sự thê thảm, bị gạt ra khỏi lề xã hội của Chí trong hoàn cảnh hiện tại. Không chỉ vậy, bát cháo hành còn gợi dậy trong Chí tình yêu, khát khao được làm hòa với mọi người, được trở về làm người lương thiện: Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, chỉ với một bát cháo hành nhưng đã góp phần thức tỉnh phần nhân tính bị vùi lấp bấy lâu nay của Chí Phèo. Đồng thời bát cháo hành cũng là hương vị hạnh phúc, tình yêu thương hiếm hoi, muộn màng mà Chí được nhận. Cùng với bát cháo hành, tình yêu thương đã giúp thức tỉnh bản chất lương thiện trong Chí Phèo.

    Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

Nguồn: vietjack

Các bài học liên quan