Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:01:39


Mục lục
* * * * *

Tóm tắt tác phẩm Cha con nghĩa nặng

Chuyện xảy ra ở Giồng Ké. Trần Văn Sửu, một nông dân hiền lành, chất phác, là con rể của hương thị Tào. Vợ của anh ta là thị Lựu, tuy đã có ba mặt con rồi, nhưng vẫn còn trăng hoa. Một hồm, khi thị đang ngoại tình với hương hào Hội thì bị chồng bắt được quả tang. Thị Lựu đã níu áo chồng cho gã nhân tình chạy thoát. Thị kêu la, chửi mắng Sửu; hai vợ chồng đôi co. Trần Văn Sửu tức giận xô vợ ngã đập đầu vào phản chết ngay. Sửu vô cùng hoảng sợ, vọt ra khỏi nhà chạy trốn biệt tích. Ai cũng tưởng anh ta đã nhảy xuống sông tự tử.

   Trần Văn Sửu lặn lội đến một vùng heo hút xa xôi, đổi tên là Sơn Rùm, làm thuê kiếm sống, tập nói tiếng Thổ, rồi chạy được giấy thuế thân. Nhưng anh ta vẫn đêm ngày thương nhớ đàn con thơ dại và ân hận về chuyện làm vợ chết. Đứa con út chết, hai đứa con của anh ta, con Quyên và thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào. Chúng khôn lớn dần, lại siêng năng làm ăn. Trong vùng có bà hương quản Tồn rất thương hai đứa con của Sửu, hết sức chăm sóc, đỡ đần và nhắm dựng vợ gả chồng cho chúng.

   Mười mấy năm đã trôi qua. Một đêm trăng sáng, hương thị Tào bỗng thấy một người Thổ bước vào sân nhà. Cha vợ và con rể gặp nhau. Vì còn ấm ức chuyện cũ, lại sợ làng tổng đến bắt, ảnh hướng đến hạnh phúc của hai đứa cháu nên hương thị Tào không cho Sửu vào nhà gặp con. Đau khổ, thất vọng, Sửu chắp tay xá cha vợ, rồi đội nón lên và bươn bả bước ra lộ hướng về cánh đồng Phú Tiên. Thằng Tí đứng trong cửa nhìn ra, nghe hết mọi chuyện đã xảy ra giữa ông ngoại và cha nó. Nó bước vội ra sân trách móc ông ngoại "sao đuổi cha tôi đi?". Thằng Tí chạy ra lộ đuổi theo cha. Đường vắng vẻ, đồng lúa bao la, trăng sáng,... Trần Văn Sửu ngoái đầu nhìn lại thấy có người đuổi theo, anh ta ngỡ là làng tổng rượt đuổi bắt. Quá hoảng sợ, anh ta co giò mà chạy. Oua khỏi cánh đồng Phú Tiên, Sửu ngoái đầu lại, anh ta mừng thầm vì không thấy bóng người đuổi rượt theo nữa. Sửu ngồi nghỉ trên cầu Mê Tức. Xúc động, bồi hổi, anh ta nhìn dòng nước mà nghĩ: có chết mới quên được việc cũ, có chết mới hết cực khổ buồn rầu. Sửu chui đầu qua lan can cầu, toan nhảy xuống sông tự tử thì nghe thấy tiêng người gọi : "Ai đó? phải cha đó không, cha? Hai cha con ôm lấy nhau mà khóc, bịn rịn bàn bạc mãi chuyện đi, về cho đến lúc sao Mai mọc.

   Từ đó, thằng Tí cứ bí mật đi đến sóc người Thổ thăm cha nó. Về sau nhờ cậu Ba Giai là chồng của cô Quyên lo lót, vận động, Trần Văn Sửu được miễn truy tố, anh ta được trở lại quê hương sum họp với các con.

Phân tích và nêu cảm nghĩ về tác phẩm Cha con nghĩa nặng

Đoạn trích "Cha con nghĩa nặng" thuộc nửa sau Chương IX - cuốn tiểu thuyết thứ 15 của Hồ Biểu Chánh. Thật không có nhan đề nào hay hơn để thay thế. Câu chuyện kể có nhiều tình huống éo le và cảm động. Các tình tiết đan chéo vào nhau làm nổi bật những đức tính tốt đẹp của Trán Văn Sửu, của thằng Tí trước bi kịch gia đình.

   Sau mười mấy năm phải thay họ đổi tên, làm thuê làm mướn kiếm sôhg ở quê người, nỗi khổ tâm đầy ắp trong lòng Trần Văn Sửu là nỗi nhớ day dứt, triển miên hai đứa con thơ tội nghiệp, là thằng Tí và con Quyên, ở nơi đất khách quê người, người cha đau khổ vì sau ngày nhỡ tay xô vợ ngã chết, lương tâm cứ cắn rứt mãi không thôi. Sửu sợ hai con "không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình ", lại sợ con sống trong cảnh côi cút "hơ vơ đói rách, mà tội nghiệp". Mẹ thì đã chết rồi, cha còn hay mất? Con không cha như nhà không nóc!

   Sau hơn mười năm trốn tránh nơi quê người, Sửu bí mật trở về Giồng Ké với ước nguyện được thăm con, được nhìn tận mặt con dù chỉ trong một lát mà cũng không được. Hình ảnh Sửu "chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bá bước ra lộ" giữa đêm trăng, trông thật đáng thương. "Ông ngoại giấu tôi tàm chỉ? Sao đuổi cha tôi đi? " — Câu hòi ấy của thằng Tí đâu chỉ là lời trách móc ông ngoại nó, mà còn biểu lộ tình cảm của đứa con khao khát được gặp lại người cha thân yêu của mình. Tình thương cha vô hạn của đứa con thơ trước bi kịch gia đình đã làm ta rơi nước mắt.

   Cảnh thằng Tí chạy vượt qua cánh đồng Phú Tiên đã cho thấy tình cha con sâu nặng biết bao!

   Ngồi trên cầu Mê Tức, Sửu ân hận nhớ lại hình ảnh vợ lúc chết "nằm ngay đơ trên bộ ván, miệng nhểu mấy giọt máu đỏ lòm, mắt hết thán mà còn mở trao tráo". Anh quên sao được hình ảnh con Quyên, thằng Tí "đứa níu áo, đứa nắm tay mà nói dỏ dẻ" mỗi buổi chiều khi anh ở ruộng đi vể. Những kỉ niệm ấy đã làm cho Sửu "đau đớn trong lòng quá, chịu không dược ". Trưóc khi định nhảy xuống sông tự tử, Sửu cất tiếng nhản gọi con thơ: "Cha chết nhé ! Mấy con ở lại mạnh giỏi, dể cha theo mẹ con cho rỗi". Lỗi kêu thương vĩnh biệt ấy đã thể hiện một cách sâu sắc tình cha con nghĩa nặng vô cùng.

   Tâm trạng đau đón vì nhớ thương con của Trần Văn Sửu khi ngồi trôn cầu Mê Tức đã được Hồ Biểu Chánh miêu tả một cách chân thực, tinh tế. Cảnh hai cha con Trần Vàn Sửu gặp nhau trên cầu Mê Tức sau những năm dài biệt li được ghi lại một cách cảm động. Thằng Tí đã đến kịp thời, nếu chỉ chậm vài bước chân thì cha nó đã về bên kia thế giới. Thấy người chạy lên cầu, nó vội hỏi: "ai đó? Phải cha đó không, cha? thì Trần Văn Sửu tháo đầu khỏi lan can cầu "rồi day mà ngố". Thằng Tí xúc động đến cưc đô, hắn "chạy riết lạỉ nắm tay cha nó, dòm sát trong mắt mà nhìn rồi ôm cứng "; cha nó vào lòng. Nó kêu, nó khóc hay nó tủi cực? Nó nói, nó hỏi liên tiếp: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy?". Cử chỉ, hành động và lời nói của đứa con trai tội nghiêp đã làm cho người cha bồi hồi, bàng hoàng "mất trí khôn, hết nghi lưc, máu trong tim chảy thình thịch, nước trọng mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết ". Hai cha con cứ "ôm nhau mà khóc ". "Đến bây giờ mới thấy đây - Mà lòng đã chắc những ngày một hai (Truyện Kiều). Con thì tưởng cha đã chết;cha lại tưởng không bao giờ được gặp lại con. Thế mà giờ đây, trên cầu Mê Tức ở quê nhà, khi "trên trời trăng thanh vằng vặc; dưới sông dòng bích nao nao ", hai cha con anh nông dân hiền lành, chất phác lại được gặp nhau, tưởng như trong mơ. Đây là một trong những đoạn văn nhiều ý vị nhất trong tác phẩm "Cha con nghĩa nặng". Hổ Biểu Chánh đã sử dụng lời ăn tiếng nói chân quê của những người dân ấp dân lân để miêu tả tâm trạng hai cha con Trần Văn Sửu một cách khá tinh tế, xúc động. Cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỉ mà có được những trang văn xuôi đậm đà như thế, thật đáng quý. Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã sinh ra và lớn lên ở miệt vườn vùng đồng bằng sông 

   Cửu Long, ngòi bút và tâm hồn ông đã gắn bó, hoà quyện với hơi thở và nhịp sống cần lao của người nông dân Nam Kì nên mới viết được chân thực như vậy.

   Trần Văn Sửu không thể vể sống lại nơi quê nhà. Làng tổng sẽ bắt, anh sẽ phải đi tù. Nếu sự việc xảy ra thì hạnh phúc và cuộc sống của hai đứa con của anh sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Nếu lại ra đi, sống lẩn lút nơi các sóc người Thổ ở Ba Si, Láng Thó thì sẽ thương nhớ con, lòng người cha sao đành? Thằng Tí thì chỉ vì muốn theo cha, "đi theo đặng làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về". Tục ngữ có câu: Trẻ cậy cha, già cậy con". Có phụng dưỡng cha mẹ lúc ốm đau, già nua thì mới trọn đạo làm con, mới "tròn chữ hiếu". Thằng Tí chỉ có một ý nguyện: "Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chứ". Chuyện cha trở vé hay cha lại ra đi, chuyện để cha ra đi một mình, hay con đi theo cha đến tận xứ người là nỗi băn khoăn của Trần Văn Sửu và thằng Tí. Vì thế hai cha con cứ "dan díu bịn rịn cho đến sao Mai mọc" mới tìm được lối thoát hợp lí. Đọc truyện "Cha con nghĩa nặng" đến Chương X, chúng ta cảm động đến rơi lệ trước cái kết có hậu chứa chan nhân tình nhân nghĩa. Người cha được miễn truy tố, được trở lại quê hương sum họp với đàn con yêu quý.

   Trần Văn Sửu và thằng Tí, những con người chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối, lam lũ quanh năm, lại mù chữ thế mà cách sống, cách ứng xử của hai cha con thật đẹp. Trước bi kịch gia đình, tình cha con vẫn sắt son sầu nặng. Đặc biệt thằng Tí là một đứa con hiếu thảo, hiếu thuận và hiếu nghĩa. Hai cha con Trần Văn Sửu là hiện thân bao phẩm chất tốt đẹp của người nông dân miền Nam nước ta xưa và nay.

Phân tích tình cha con trong tác phẩm Cha con nghĩa nặng

 Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam bộ. Ông là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in trong sách Văn 11 là một trường hợp tiêu biểu.

   Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của ba nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là người giết vợ. Sợ pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui lủi, đến tên tuổi tung tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn rứt dằn vặt của lương tâm. Những điều này được thể hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật chủ yếu dùng hành động và lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu. Trong hoàn cảnh cuộc sống không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu đã sống những ngày không ra cuộc sống của con người nhưng ông đã không chết được vì lòng thương con, vì sự cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người lương thiện, hiền lành chất phác, thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con người đàng điếm lăng loàn. Ông sợ là khi mình chết đi mà các con ông không hiểu được cha của nó một cách đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con của người cha tàn bạo. Rõ ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn riêng mình nhận lấy nỗi khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con ngây thơ trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho tâm hồn chúng vẩn lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau khổ về thể xác, về tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt đẹp cho con.

   Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm tháng chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có thể thực hiện điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu đã nói với cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ, làm hiện lên nguyên vẹn tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến ông trở thành người kiên quyết: "xăm xăm bước đi về cửa", "lột nón xuống mà cầm trên tay". Mặt khác cũng chính vì lòng thương con, khao khát được gặp mặt con khiến ông trở thành người mềm yếu một cách chân thực: "… cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng… Trần Văn Sửu nói tới đó rồi khóc rấm rứt". Trần Văn Sửu than rằng: "Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm sao được, trời đất ơi!". Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước mắt ta cuộc đời khổ ải của Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết, muốn gặp mặt con dù một chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến Sửu không kiềm giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương Thị Tào):

"… Con thương sắp nhỏ quá"

"… Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!"

"… Con nhớ sắp nhỏ quá".

   Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng tỉnh những tình cảm tốt lành trong Hương Thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng ban đầu "Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi… đừng có về đây nữa" đến chỗ ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: "Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc". Sau khi nghe Hương Thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình, Trần Văn Sửu chỉ muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu mình dưới dạng người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha bất hạnh. Sửu trở về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng lặng lẽ ra đi bấy nhiêu khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được sống sung sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ khát vọng cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu vui lòng "lãnh các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu có, sung sướng thì thôi". Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi quyết tâm không về nữa.

   Bằng một đoạn văn đọc thoại nội tâm: "Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ nữa", một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh một tình huống éo le. Và bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để "quên hết việc cũ", "hết buồn rầu, cực khổ", chết để khỏi liên lụy đến con! Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân vật hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình ("Anh ta nghĩ như vậy rồi nhắm mắt lại"…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh của người vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can ông. Điều đó làm ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ. Mặt khác hình ảnh thơ ngây của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông đau đớn trong lòng, trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương thiện và tình thương con cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân bản. Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, song lòng lương thiện, đức vị tha bao dung, tình thương con của người cha đó vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời nói, mục đích sáng tác nhằm giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là những điều chúng ta gặp trong văn học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm trạng. Đó là nỗi khát khao tình cảm của một người cha đối với con, là sự giãi bày những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt 11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng con. Nhưng chưa gặp con là đã gặp lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam bộ đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo tạo tình huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.

   Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như 11 năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu nghĩa. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người cha đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng choán ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát được sống trong tình thương yêu của người cha.

   Tình nghĩa sâu nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc động thật thấm thía. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện ở một phía (Sửu) mà đến từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết tình thương cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động. Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: "Cha tôi đi đâu rồi ông ngoại?". Đĩnh đạc và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu chạy riết theo, tiếng nói cất thêm từ niềm sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao mà xúc động: "Ai đó? Phải cha đó không, cha?". Trong khi Trần Văn Sửu muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu cha chân thành, đã cứu cha trở về với cuộc sống. Cảnh cha con gặp nhau thật cảm động, sinh động và giản dị: "Thằng Tí chạy riết lại nắm lấy tay cha nó, dòm sát trong mặt rồi nhìn mà ôm cứng trong lòng mà nói: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu giữ vậy". Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết". Khi gặp được cha rồi, Tí nhất quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: cha đi đâu con theo đó", "Hễ cha đi thì con đi theo", "Đi theo đặng mà làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về". Mặc dù đã mười một năm không gặp cha, không được cha âu yếm, nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy. Như vậy, Trần Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí cũng vì cha mà đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại mình… Ấy chính là cái "nghĩa nặng" của tình cha con thể hiện ở đây.

   Tóm lại: Đoạn trích Cha con nghĩa nặng in trong sách giáo khoa văn 11 là một cuộc gặp gỡ đầy xúc động và chứa chan nước mắt giữa cha con ông Sửu, Qua những tình huống đầy kịch tính, tác giả đã nêu bật cái đẹp nội tâm của hình tượng nhân vật cha và con. Ở đây cha nghĩ về con là hết lòng và đối với cha cũng hết nghĩa. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh khác, hấp dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa nặng mang dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện đại. Trước hết nó được viết bằng chữ quốc ngữ, bằng lời ăn tiếng nói đời thường (bởi ngôn ngữ đời thường), bằng những câu văn xuôi rất mới mẻ, tuy nhiên vẫn còn rơi rớt của lối văn biền ngẫu "Trên trời trăng thanh vằng vặc, dưới sông dòng bích nao nao…". Truyện mang dấu ấn của buổi giao thời…

Nguồn: vietjack

Các bài học liên quan