Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Soạn bài lớp 10: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

cce70f69da5bb7cc6330d6e526d4360a
Gửi bởi: Nguyễn Đức Mạnh 29 tháng 3 2017 lúc 21:02:56 | Được cập nhật: 1 tháng 5 lúc 14:41:11 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 606 | Lượt Download: 0 | File size: 0 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Soạn bài: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụTÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ(Trích Chinh phụ ngâm) Nguyên tác chữ Hán: ĐẶNG TRẦN CÔN Bản diễn Nôm: ĐOÀN THỊ ĐIỂM (?)I KIẾN THỨC CƠ BẢN1. Tác giả Đặng Trần Côn hiện không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết sống vào khoảngthế kỉ XVIII. Quê tại làng Nhân Mục thường gọi là làng Mọc, huyện Thanh Trì, nay làquận Thanh Xuân, Hà Nội. Đặng Trần Côn còn có nhiều tác phẩm, nổi tiếng hơn cả làChinh phụ ngâm. Ngoài Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn còn có mấy bài thơ vịnh támcảnh đẹp Tiêu Tương (Tiêu Tương bát cảnh), và một số bài phú như Trương Hàn tưthuần lô (Trương Hàn nhớ rau thuần, cá vược), Trương Lương bố (Trương Lương áovải), Khấu môn thanh (Tiếng gõ cửa).Bản diễn Nôm (giới thiệu trong sách giáo khoa) tương truyền là của Đoàn Thị Điểm.Dịch giả Đoàn Thị Điểm (1705 1748), hiệu là Hồng Hà, người làng Giai Phạm xứ KinhBắc nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha là Đoàn Doãn Nghi, anh là ĐoànDoãn Luân, đều đậu hương cống, không ra làm quan, chỉ nhà dạy học. Đoàn Thị Điểmlà một phụ nữ nhan sắc, tài hoa. Sáng tác tập thơ chữ Hán Truyền kì tân phả và bản dịchChinh phụ ngâm bằng chữ Nôm. Đã từng làm nghề dạy học và trở thành nhà giáo phụ nữđầu tiên thành đạt, học trò của bà rất đông, sau này có người đỗ đến đại khoa.2. Ngâm khúc là thể loại thơ trữ tình trường thiên thuần tuý Việt Nam viết bằng thể thơsong thất lục bát với phương thức trữ tình dài hơi, sử dụng nhiều tiểu đối. Thể loại nàyphù hợp với việc bày tỏ tâm trạng, cảm xúc hồi tưởng, nhớ nhung, suy tư, sầu muộn, aioán, xót thương của nhân vật trữ tình.Thể thơ song thất lục bát là thể thơ mỗi khổ gồm hai câu chữ, một câu chữ, một câu 8chữ. Bốn câu dài ngắn khác nhau kết lại thành một khổ và luân phiên kéo dài bao nhiêukhổ cũng được trong một bài thơ. Hai câu thất ngắt nhịp cố định 3/4 (khác với câu thấtngôn Đường luật ngắt nhịp 4/3); câu và câu ngắt nhịp tự do. Có thể gieo vần bằnghoặc trắc, cuối câu hoặc lưng chừng câu.Chinh phụ ngâm là tác phẩm mở đầu, cũng là tác phẩm đặc sắc nhất của thể loại ngâmkhúc, một thể loại trữ tình rất phát triển thế kỉ XVIII.3. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ tập trung khắc hoạ tình cảnh lẻ loi vànỗi nhớ thương da diết của người chinh phụ đối với chinh phu trong những ngày dài biềnbiệt xa cách; qua đó bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả.II RÈN LUYỆN KĨ NĂNG1. Tìm hiểu xuất xứTheo Phan Huy Chú thì Đặng Trần Côn đã soạn khúc ngâm vào khoảng 1740 1742, vàĐoàn Thị Điểm có thể dịch vào khoảng 1743 1745, trong thời gian ông Nguyễn KiềuDoc24.vn(chồng bà) đi sứ.Đoạn trích từ câu 193 đến câu 288: Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởngtượng cảnh chiến trường đầy hiểm nguy và chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng.Thương thân mình lẻ loi, cô đơn, một thân “nuôi già dạy trẻ” vò võ chờ chồng... lại nhớthương và lo lắng cho chồng. Tâm sự đó thể hiện rõ nét đoạn trích này.2. Tìm hiểu khái quát về tác phẩm Chinh phụ ngâmGợi ý: Chinh phụ ngâm là lời thở than của người vợ có chồng ra trận. Khúc ngâm gồm cóba phần:Phần mở đầu: Người chinh phụ nhớ lại cảnh người chinh phu lên đường. Trong con mắtcủa người vợ, hình ảnh của người chồng thật hào hùng, đẹp đẽ. Bởi theo suy nghĩ củanàng lúc đó thì việc chàng ra trận là bổn phận thiêng liêng và hứa hẹn ngày lập côngchiến thắng cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng vì nhớ thương da diết nên trong tâmtrạng nàng, bên cạnh niềm kiêu hãnh, tự hào là nỗi sầu oán: “Sầu lên ngọn ải, oán ra cửaphòng”.Phần trung tâm của khúc ngâm là cuộc sống “Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chânmây”. Đến đây yếu tố tình cảm trở thành động lực chi phối cái nhìn chiến tranh của chinhphụ.Nàng tưởng tượng ra cảnh chiến trường và cuộc sống của chinh phu chiến trường. Thayvì những chiến công, đây chỉ thấy những cuộc hành quân, những trận đánh liên miênvới bao nhiêu khó khăn nguy hiểm. Chiến trường đồng nghĩa với “tử địa” (đất chết) đâuđâu cũng thê lương, ảm đạm. Còn những người chinh phu thì luôn phải đối diện với cáichết, bộ mặt lúc nào cũng mệt mỏi bi quan. Từ những gì đã phơi bày, người chinh phụ đặtcâu hỏi:Trên trướng gấm thấu chăng hay nhẽ,Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?Lời chất vấn là thái độ oán trách nhằm vào chính quyền phong kiến đã gây ra chiến tranhnhưng lại không chút bận tâm đến số phận của người ra trận.Cuộc sống đau khổ mà chinh phụ tự bộc lộ chủ yếu tập trung bi kịch nội tâm cô quạnh.Trạng thái biểu hiện của nội tâm đó thật nhiều vẻ: luyến tiếc, nhớ nhung, hi vọng, oántrách, ngóng đợi, lo lắng,... tất cả đều nhuốm màu bi thương, kết thành khối sầu muộnchất đầy, ngưng đọng. thức được nỗi khổ đau, chinh phụ từ chỗ đồng tình với việcchồng ra trận, đã hối hận, nhận ra sai lầm của mình:Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.Phần kết: Chinh phụ mơ tưởng ngày chồng chiến thắng trở về, lập nên công trạng, vợ conđược chung hưởng hiển vinh. Đây là hạn chế nhưng cũng là tâm lí phổ biến. Có giấc mơnào không vươn đến điều tốt đẹp có tính lí tưởng. Đáng nói là trong cuộc sum họp đó âmhưởng tha thiết nhất đã ngân lên từ những cử chỉ âu yếm vợ chồng. Vì vậy nguyện sauchót được khắc sâu: “Giữ gìn nhau vui thuở thái bình” và hoàn toàn nhất quán với cáinhìn thay đổi về chiến tranh như đã nói trên.Doc24.vnĐoạn trích kể về tình cảnh người chinh phụ nhớ chồng ngày ngày ra vào trông ngóngkhông yên, đêm năm canh thao thức, đốt hương, soi gương, gảy đàn đều không nguôi vơiđược nỗi nhớ. Muốn gửi tấm tình nhớ thương cho chồng mà cũng đành bất lực.3. Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ láy trong đoạn tríchGợi ý: Tác giả đã sử dụng nhiều từ láy giàu giá trị biểu cảm, gợi hình, tượng thanh.+ “đằng đẵng” là tính từ chỉ độ dài thời gian vô hạn, đặt trong câu thơ, gắn với khônggian “đường lên bằng trời”, con đường cũng dài vô hạn, miêu tả thật thành công nỗi nhớvô cùng mà người chinh phụ dành cho chồng nơi chiến trận.+ “dằng dặc”: chỉ độ dài thời gian mà thiếu phụ sống triền miên trong sầu muộn, nhớthương và lo lắng.+ “thăm thẳm”: Chỉ độ xa cách của không gian: “Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”. Trờitrong quan niệm của người xưa là đấng tối cao có uy quyền tuyệt đối, có khả năng thấuhiểu mọi sự. Nhưng vì thương nhớ chồng quá mà chinh phụ cảm nhận đến cả trời xanhcũng “thăm thẳm” không tỏ tường được nỗi nhớ của mình.4. Chỉ ra và phân tích những hình ảnh thơ đặc sắcGợi ý: Hình ảnh thơ đặc sắc, giàu tính biểu trưng, đặc biệt là hình ảnh hoa, nguyệt trongphần cuối đoạn thơ. Những diễn biến phong phú, tinh vi của tình cảm được diễn tả trêncái nền tâm cảnh buồn khổ, lẻ loi. Cảnh và tình đan bện, làm nổi bật những diễn biến củatâm trạng con người.Hoa nguyệt là những hình ảnh ẩn dụ để nói về tâm trạng của chinh phụ. Chinh phụ thìđang cô đơn đến tột cùng, vậy mà hoa nguyệt thì cứ sóng đôi quấn quýt. Hoa phô bày vẻđẹp trước nguyệt, nguyệt chan hoà ánh sáng lên hoa. Đặc biệt hai chữ hoa và nguyệt khithì được xếp đầu hai vế của câu thơ, khi thì gần sát nhau... như biểu tượng về sự gắnkết, giao hoà “nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông”. Tình cảnh ấy càng làm chinh phụthấm thía sâu sắc nỗi cô đơn quạnh vắng của bản thân.5. Nhận xét về nhịp điệu thơGợi ý:Nhịp điệu thơ linh hoạt, giàu nhạc điệu diễn tả dòng tâm trạng lúc thì buồn bã, thẫn thờ,khi thì tha thiết mong nhớ, trào dâng ước ao,… của người chinh phụ: sự biến nhịp cáccâu lục bát và nhịp lặp lại trùng trùng trong các câu thất.6. Đối chiếu hai câu:Bản chữ Nôm Bản chữ HánKhắc chờ đằng đẵng như niên Sầu tự hải.Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Khắc như niên. (Sầu tựa biển Khắc như năm) Gợi ý:Doc24.vnMột mặt, người diễn Nôm đã trung thành với cái hay của nguyên tác; đồng thời, trungthành mà vẫn sáng tạo. Nhất là sự sử dụng hết sức thành công các từ tiếng Việt như "đằngđẵng", "dằng dặc" để tô đậm cảm giác về thời gian và không gian chờ đợi, buồn thương.Ngoài ra, người diễn Nôm đã sắp xếp lại trật tự hai câu thơ: đảo "sầu tự hải" xuốngdưới, chuyển "khắc như niên" lên trên; việc đảo đổi này đem lại một kết cấu mở, diễn tảđược cảm giác thời gian chờ đợi dài vô cùng khiến nỗi sầu trở nên vô tận.7. Tâm trạng của chinh phụ được thể hiện như thế nào trong hai khổ thơ mở đầu đoạntrích?- Cảnh hiện ra như một màn kịch:+ Nhân vật: chinh phụ+ Thời gian: ban đêm Quang cảnh xung quanh: căn phòng có rèm cửa, có ngọn đèn.- Chinh phụ bồn chồn đứng ngồi không yên, hết ra lại vào, thấy quang cảnh ngày cũngnhư đêm đâu đâu cũng chỉ có nỗi cô đơn, buồn tẻ bủa vây. Cảnh ngoài căn phòng lẻ loi,trong phòng cũng vậy, ban ngày cũng như ban đêm, một mình một bóng. Rèm cửa vàngọn đèn là nhân chứng cho sự lẻ loi đơn chiếc của nàng. Có lúc nàng đã nghĩ không rõngọn đèn có biết tình cảnh của mình không, rồi lại nghĩ đèn và mình cùng chung cảnhngộ đáng thương.- Hình ảnh trong phòng ngọn đèn cô đơn, ngoài hiên thiếu phụ một mình dạo bước cực tảsự lẻ loi, đơn chiếc, trống trải.8. Phân tích diễn biến tâm trạng của chinh phụ trong đoạn thơ từ: “Gà eo óc gáy” đến“phím loan ngại trùng”.Gợi ý:- Đoạn từ “Gà eo óc gáy... đến “Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”:Nếu đoạn trên là khát khao đồng cảm thì đến đoạn này tác giả lại tập trung diễn tả sự chờđợi nặng nề khủng khiếp mà chinh phụ phải gánh chịu trong những ngày biền biệt xachinh phu. Câu và là cảnh đêm và ngày, tình cảnh nào cũng lẻ bóng đơn côi. Khôngphải ngẫu nhiên tác giả đã xếp hai đêm ngày sóng đôi nhau, gợi nỗi thất vọng triềnmiên trong nỗi khát khao đồng cảm. Đêm thì tiếng gà eo óc gáy suốt năm canh, ngày thìbóng hoè lơ đãng chuyển hết bên này sang bên nọ. Thiên nhiên vạn vật phải chăng đangvô tình trước sự cô đơn lạnh lẽo của chinh phụ. Câu và là cảnh chờ đợi, thời gian chờđợi dài như thời gian vô tận và không gian mênh mông.- Đoạn “Hương gượng đốt... đến “... phím loan ngại trùng” nói về những gắng gượngcủa chinh phụ để thoát khỏi tình cảnh cô đơn hiện tại nhưng không hiệu quả: Miễn cưỡngđem hương ra đốt nhưng như càng bị dấn sâu thêm vào nỗi sầu miên man; đem đàn ragẩy hi vọng vơi nguôi nỗi buồn nhưng cũng không làm được: dây đàn kinh sợ mà đứt,phím đàn ngần ngại mà chùng. Như thế, mọi gắng gượng đều vô vọng, không vượt thoátđược nỗi cô đơn đang bao trùm, vây bủa.9. Phân tích diễn biến tâm trạng của chinh phụ trong đoạn thơ từ “Lòng này gửi gióđông... đến “nào xong”Doc24.vnGợi ý:Nếu trước đó đoạn thơ tập trung diễn tả cảnh lẻ loi đơn chiếc của chinh phụ thì đoạn nàychuyển sang diễn tả nỗi lòng chinh phụ hướng về phương xa, nơi nàng hình dung có sựhiện diện của chinh phu. Không gian thay đổi, điểm nhìn thay đổi, từ căn phòng nhỏ hẹpchuyển sang không gian xa rộng và bát ngát không cùng:Non Yên dù chẳng tới miền,Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.Vì nỗi nhớ lớn quá mà nàng nảy sinh một nghĩ nên thơ: gửi gió đông đem lòng thươngnhớ của mình đến nơi có người chồng đang chinh chiến. Nhưng đó cũng chỉ là một ướcmơ vô vọng, không thể thực hiện được. Hỏi trời, trời không thấu và trời xa quá: “Trờithăm thẳm xa vời khôn thấu”. Bởi thế, quả thật là chỉ có thời gian đằng đẵng và khônggian mênh mông mới đo được nỗi nhớ của chinh phụ.Doc24.vn