Phân tích Tây Tiến- Bài 5
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 23 tháng 12 2019 lúc 16:19:37 | Được cập nhật: 30 tháng 4 lúc 3:02:31 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 478 | Lượt Download: 0 | File size: 0.018652 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Phân tích Tây Tiến – Bài 5
Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những
nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi
tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên
bình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn
liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà
thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình.
Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá
vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả
phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân
yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm
xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về
đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà
thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quaqan
Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc
tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định,
khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong
những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
“Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong
lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bang khuâng, hoài
niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ,
Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi
vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên
làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua
mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ
trên ta như hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù
dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh
“sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của
mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác
họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn n gười lính:
“Mường Lát hao về trong đêm hơi”
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà
thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện
trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương
lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ
“đêm hơi” ta như hình dung ra mooth không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong
không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ
tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng
thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm
mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống
không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài
thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc
biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc
bão bùng.
“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối
thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền
Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái
trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của
con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô
cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ
gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian
nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi
trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữu biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ
không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất
lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho
câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc
trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuậ đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn
thước, ngàn thước… Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là
dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ
dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất
can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng
để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt
thanh bằng:
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con
mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa.
Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy
dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những
tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện
lên thật ấn tượng.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý
kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu
những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi
bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư
thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng gặp người lính hi
sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên
nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người,
hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với
những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào
nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc
càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đã viết
về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ thấu hiểu của một người từng
trải.
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị
của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong
câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà
như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để
mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên-chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy
màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên
miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được
chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hung và
hào hoa:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn
binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rwts
đã làm cho tóc của những người linh không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là
mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh
xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân
những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn
bệnh sốt rét quái đản kia.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí
chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê
hương tổ quốc… ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”
Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang
Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ
trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cươi
của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô
danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung hơn ở
những câu thơ tiếp theo:
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời
mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự
ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ
Xuân, là Đặng Thùy Trâm:
“chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”
“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những
người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang
Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào
ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không
gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về
với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con
người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là
khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc
của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường
thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự
tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng
nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh,
ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân
tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về
đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân
trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.