Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học

20dd4f6d2a75457851797d1d54192587
Gửi bởi: Khoa CNTT - HCEM 22 tháng 2 2022 lúc 14:26:16 | Được cập nhật: 9 giờ trước (5:53:34) | IP: 100.120.211.175 Kiểu file: PDF | Lượt xem: 845 | Lượt Download: 35 | File size: 2.13886 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

< xmlns="http://www.w3.org/1999/x" lang="" xml:lang=""> ĐỀ

    

CÁC BÀI VĂN ĐOẠT GIẢI NHẤT QUỐC GIA VÀ 

ĐIỂM 10 ĐẠI HỌC 

  ĐỀ:Bàn về thơ, nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã viết:  

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” 

 

Anh (chị ) hãy bình luận ý kiến trên. 

Bài làm 

 

Những vần thơ Anđécxen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có 

những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra  một định nghĩa trọn vẹn, hoàn chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn cảm  xúc  của  triệu  triệu  con  người  trên  trái  đất  này  không  ngừng  lay  động,  thổ  thức, xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki vào thế kỉ mười chín”:  

 

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” 

 

Từ thủa thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những 

đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ tổng kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta không định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông lung, xa vời vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là  một khái niệm hết sức gần gũi: “Thơ trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc đời” như một vì sao được chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên một ánh sáng lung linh, rạng rỡ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.  

Cuộc sống bao giừ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm 

hồn  nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uộc, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. anh sĩ Lê Quí Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn 

quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng thi ca. đến với Chế Lan Viên, một “triết gia thi sĩ”, ta không quên giây phút con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của sự chán chường:  

 

 

“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh 

 

 

 

Một vì sao trơ trọi giữa trời xa 

 

 

 

Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh 

 

 

 

Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo” 

 

Thế mà cuộc sống mới chan hoà hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan mọi 

băng giá trong trái tim thi sĩ. Người sà vào lòng nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ cuộc đời:  

 

 

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ 

 

 

 

Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa  

 

 

 

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa 

 

 

 

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa” 

 

 

 

 

 

(Tiếng hát con tàu). 

 

Cuộc sống mên mông và kì diệu làm sao ! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho 

thơ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống,  bóng  hình  con  người.  Thơ  ca  là  nơi  con  người  gửi  gắm  tâm  tình,  ước  mơ,  khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Cuộc đời ban truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. đến với thơ, người đọc trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau đó sẽ gặp chính tâm tư của mình bởi thơ là “tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Cùng với văn chương, thơ ca trở nên những nhịp cầu vô hình dẫn dắt những tâm hồn đến với tâm hồn., những trái tim đến với trái tim để con người cùng sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hi vọng.  

Cuộc đời vốn bao la, vô tận kia như một bức tranh với  ba chiều không gian trải dài 

đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc đời ấy:  

 

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật 

 

 

Một mật ngọt thành, đời vạn chuyến ong bay 

 

 

 

 

 

(Chế Lan Viên) 

 

Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn 

bóng hình của cuộc đời rộng lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời để hút lấy chất mật tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị. Nhà thơ phải biết chắt lọc chất liệu mà cuộc đời cung cấp, từ đó mới tạo nên những vần thơ hay, làm rung động lòng người đọc. Thi ca gắn liền với cảm xúc. Nhà thơ không thể hiện cuộc đời qua những tình huống, qua những sự kiện như các nhà văn. Nhà thơ giãi bày bằng cảm xúc, bằng ngôn ngữ thi ca, bằng cả “khoảng trắng giữa các ngôn từ”. Thơ ca có giá trị không tách rời sự thoát li, tách rời khỏi cuộc sống, cũng như sự photocopi cuộc sống một 

cách cứng nhắc, khuôn mẫu. Đọc thơ mà chẳng tìm thấy nỗi lòng nhà thơ, đấy chẳng phải là thơ ca đích thực ! Nếu không có một thiên tài như Nguyễn Du uyên bác, ta không thể có “Truyện Kiều”. Nhưng nếu không có những lầm than cơ cực, đắng cay, tủi nhục cùng với những ước mơ cháy bỏng của nhân dân trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong đầy ngột ngạt, ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ đầy chất nhân bản sâu xa.  

Nếu không có một vùng quê Kinh Bắc êm ả, bình dị với những con người chăm 

chỉ, hiền hoà, mãi mãi ta không thể nào có được nỗi nhớ rạo rực thiết tha của thi sĩ Hoàng Cầm trong bài “Bên kia sông Đuống:  

 

 

“Em ơi buồn làm chi 

 

 

 

Anh đưa em về bên kia sông Đuống 

 

 

 

Ngày xưa cát trắng phẳng lì 

  

 

 

…Xanh xanh bãi mía bờ dâu 

 

 

 

Ngô khoai biêng biếc 

 

 

 

Đứng bên này sông sao nuối tiếc 

 

 

 

Sao xót xa nhưn rụng bàn tay” 

 

Thơ bao giờ cũng in đậm chữ “đời” trước hết. Cuộc đời không chỉ ban cho nhà thơ 

nguồn cảm hứng mà cuộc đời còn là nơi khai thác “chất quặng” nguồn từ để tạo nên thơ:  

 

“Vạt áo của nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà cuộc đời rơi vãi 

 

 

Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang” 

 

 

 

 

 

(Chế Lan Viên) 

 

Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái 

tôi”  nhỏ  bé  của  người  nghệ  sĩ,  thơ  ca  chỉ  là  những  bông  hoa  làm  bằng  “vỏ bào”(Pauxtôpxki). Nhà thơ phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô tận để làm nên những “bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ, theo cách diễn đạt của Pauxtôpxki.  

Trở lại câu nói của nhà phê bình Bêlinxki, ta thấy đó không phải là cái nhìn phiến 

diện. “Thơ trước hết là cuộc đời” nhưng cuộc đời chưa phải là tất cả. Bêlinxki rời phím nhấn “cuộc đời” ấn tay vào phím cạnh bên “nghệ thuật”. Như vậy, Bêlinxki đã không phủ nhận vai trò quan trọng của yếu tố làm nên thi ca này. Thiếu nghệ thuật, thơ chỉ còn là hòn ngọc thô không mài không giũa, không thể khơi dậy trong trái tim con người những rung động sâu xa. Thơ có thể ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều là hình hài sắc vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu trời cao rộng, nâng cảm xúc đến mức thăng hoa. Ta yêu “Truyện Kiều” đâu chỉ vì “đoạn trường tân thanh” xé ruột cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc truân chuyên của cánh hoa Thuý Kiều tài sắc. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong lục bát thân thương:  

 

 

Long lanh đáy nước in trời 

 

 

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng 

 

Cảnh mùa thu long lanh, mĩ lệ đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng 

người dân đất Việt đến nhiều thế kỉ mai sau.  

Thơ cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm 

cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề lặn sâu vào đại dương cuộc sống, không phải để nhặt nhạnh mảnh san hô tầm thường mà để tìm những viên ngọc trai lấp lánh, những “khối tình con” kết từ máu huyết của loài trai nhẫn nại, cần cù (một ý của Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”). Nhà thơ chỉ cần rung động trước lớp sóng của cuộc đời thôi ư ? Chưa đủ, như thế anh chỉ có cái tâm mà chưa có cái tài để xứng đáng mang danh hiệu “thi sĩ”.  

Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định 

luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa  có  tài  năng  và  tâm  huyết,  vừa  đắm  mình  vào  cuộc  đời,  vừa  không  ngừng  tìm  tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:  

 

 

“Phí tổn ngàn cân quặng chữ 

 

 

 

Để thu về một chữ mà thôi 

 

 

 

Những chữ ấy làm cho rung động 

 

 

 

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài” 

 

Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở 

nên  bất  tử.  Lao  động  nghệ  thuật  là  hình  thức  lao  động  của  trí  óc  và  trái  tim.  Phải  có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính.  

Viết về mùa thu, thi sĩ từ cổ chí kim đã dùng bao hình ảnh tuyệt đẹp, từ “Ngô đồng 

nhất diệp lạc” đến “cúc vàng lưng giậu”, từ “non phơi bóng vàng đến” “trăng sáng như gương”… Thế mà cậu bé Trần Đăng Khoa lại cảm nhận mùa thu theo một cách riêng qua hình ảnh hoa cau giản dị:  

 

 

“Nửa đêm nghe ếch học bài 

 

 

   Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây 

 

 

 

Nghe trời trở gió heo may 

 

 

  Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” 

 

 

 

 

 

(Hoa cau) 

 

Những  cánh  hoa  cau  trắng  muốt  mỏng  manh  rụng  đầy  vại  nước  làng  quê  phải 

chăng là “hoa cau cuộc đời” hoá thành “hoa cau nghệ thuật” trong thế giới thơ phong phú đầy tưởng tượng bay bổng của nhà thơ tí hon dễ yêu, dễ mến ? Hoa cau thoang thoảng thơm mãi con đường thi ca trải rộng, quấn quýt êm đềm trong trái tim những người yêu thơ…  

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Ý kiến của Bêlinxki  thật 

xúc  động  và  đầy  giá  trị  !  đến  với  thơ  nghĩa  là  ta  đến  với  cuộc  đời  qua  lăng  kính  nghệ thuật của nhà thơ. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp những đợt sóng cuộn trào và 

muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng khuâng,… bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ không  phải  là  thứ  tôn  giáo  cao  siêu  huyền  bí,  cũng  không  phải  là  những  ghi  chép  tủn mủn, vặt vãnh vô giá trị về cuộc đời, về con người quanh ta. Thí sĩ không thể làm nên thơ nếu cửa lòng đóng khép, nếu không “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (Nam Cao). Cuộc sống cuộn xoay không  một giây dừng lại, thơ ca cũng không ngừng nảy nở sinh sôi, cống hiến cho đời những đoá hoa đẹp nhất.  

Thi sĩ ơi, anh hãy sáng tác bằng cả nhiệt huyết và tình yêu cháy bỏng của trái tim 

mình.  

 

 

Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng 

 

 

 

Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi ! 

 

 

 

 

 

 

(Chế Lan Viên) 

 

Bắt nguồn từ cuộc sống, qua lăng kính cảm nhận của thi nhân, thơ ca lại trở về với 

đời,  tạo  dòng chảy  trong trái tim  người  thưởng thức.  Thư  ca mang  đến  cho  con người những gì ? Thơ ca phải chăng chỉ để giết thời gian hoặc làm cho người ta bị mê hoặc? Thơ  ca  chân  chính không  phải  là  một  loại  hình nghệ thuật  mang tính  chất giải trí đơn thuần. Song hành cùng người bạn cốt văn chương, thơ ca mở ra những ngả đường hướng triệu triệu con người tới cõi chân- thiện – mĩ. Thơ ca đích thực phải là thơ ca khơi dậy những rung động sâu sắc trong tâm hồn con người, làm phong phú thế giới cảm xúc của con người, khiến con người vươn tới ước mơ sống tốt hơn, đẹp hơn. Nhà thơ Thanh Hải đến phút  cuối  đời  trên giường bệnh  vẫn  khát khao  cống hiến  cho  đời  những  giọt  xuân trong trẻo:  

 

 

 

Ta làm con chim hót 

 

 

 

 

Ta làm một cành hoa 

 

 

 

 

Ta nhập vào hoà ca 

 

 

 

 

Một nốt trầm xao xuyến. 

 

 

 

 

 

 

(Mùa xuân nho nhỏ) 

 

Làm sao lòng ta không rạo rực trước sức sống mãnh liệt, dạt dào của một nhà thơ 

yêu đời, yêu người tha thiết đến nhường ấy! Nhà thơ đã vượt qua chính mình để làm một nốt trầm lặng lẽ. Mình có ích giữa muôn vàn âm thanh sôi động của cuộc đời muôn màu, muôn vẻ này chưa ?  

Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, “thanh lọc” 

tâm hồn con người, chắp cánh cho con người bay tới những ước mơ, khát vọng. Trên cõi hành trình dài đằng đẵng đầy chông gai của đời người, có những lúc dừng chân ngơi nghỉ , ta không thể không nghĩ về cuộc đời, về những điều tốt đẹp. Bao giờ ta còn đồng cảm với tấm lòng thi nhân, khi ấy thơ ca vẫn còn tồn tại sức sống bất diệt, vĩnh cửu.  

Anđecxen không chỉ là bậc thần tiên tạo nên những trang cổ tích làm say mê biết 

bao thế hệ con người mà còn là nhà thơ chân chính mà “thơ của ông làm no nê trái tim người dân chẳng khác gì triệu triệu những hạt bụi nước li ti làm bão hoà không khí trên 

đất đai Đan Mạch. Người nói vì thế mà không ở đâu có cầu vồng rộng lớn và rạo rực như ở nơi này” (Pauxtôpxki).  

Thơ  ca thật  kì diệu và đáng quí!  Đã là thi  sĩ,  một khi  cầm  bút,  anh  không được 

phép phân biệt giữa mình và người, mà phải “viết hết mình cho người” (Tố Hữu). Có như thế thơ ca của anh mới sống mãi mãi với cõi đời này.  

Thơ là cuộc đời cho nên thơ không chỉ khơi dậy những cảm xúc êm đềm, dịu dàng, 

êm ái; không chỉ làm lòng ta quặn đau trước những nỗi “đoạn trường”. Thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” (Eptusencô), phải khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. đấy là giây phút Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào những vần thơ mà xích xiềng không khoá nổi:  

 

 

Ví đâu có cảnh đông tàn 

 

 

 

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân 

 

 

 

Nghĩ mình trong bước gian truân 

 

 

 

Tai ươn rèn luyện tinh thần thêm hăng. 

 

Ngược dòng thời gian, ta còn thấy đó là giây phút Lí Thường Kiệt cất tiếng sang 

sảng đọc tuyên ngôn Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền độc lập của non sông. Giá trị của thơ ca mới cao cả đến nhường nào!  

Trở về với hiện tại thơ ca hôm nay, ta bắt gặp những dáng hình thi sĩ trên những 

ngả đường thơ trải rộng, đang từng bước khám  phá, tìm tòi và sáng tạo, đem lại nguồn mới cho thi ca. Phải chăng họ đang đặt chân lên hành trình đến với “Mảnh đất nở hoa dâng tặng người muốn hái” ?  

Thi sĩ ơi, dù phải theo ngả nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: “Thơ trước hết là 

cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.  

Ý kiến về thơ của nhà phê bình văn học Nga V.Biêlinxki quả thật đáng để chúng ta 

suy nghĩ và nghiền ngẫm. Thơ đâu phải là quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt. Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp  những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.  

Ngày xưa, tôi yêu văn thơ Anđecxen bởi nơi ấy bao giờ cũng rung rinh đoá hồng 

bạch toả hương ngào ngạt bên những nàng công chúa xinh tươi. Nay tôi lại càng say mê những dòng văn đầy nhân ái kia bởi tôi còn cảm nhận được hương vị của cuộc đời, “chất người” ủ kín bên trong.  

 

 

 

 

 

Đinh Thị Mĩ Huỳnh 

 

 

 

 

Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – TP Hồ Chí Minh 

  

 

 

 

 

 

  Bài đạt giải nhất 

Đề bài

Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình 

thức và một khám phá về nội dung". 

Anh, chị hãy bình luận ý kiến trên. 

(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1998, bảng A) 

Bài Làm (1) 

"Ai bảo dính vào duyên bút mực Suốt đời mang lấy số long đong." 

Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chị nỗi đau 

vì sự bạc bẽo của văn chương. Tai sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yeu cầu: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung". 

Cũng  như  ý  kiến  của  Xuân  Diệu,  NGuyễn  Tuân,  Măcxin  Gorki...,  nhà  văn  Nga 

Lêônit Lêônôp muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác phẩm phải kà một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ơ sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật. 

Cuộc sống bày ra trước măt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những 

người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tac phải đem đên cho họ một cái nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan. 

Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biêt và hứng thú của nhà văn thì có 

hạn. Do đó ngoài việc tìm đến những mảnh đât mới của hiện thực để gieo mần tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy vố ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc. LepTônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: "Thơ là đã mởi ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị đóng kín". 

Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó 

trước hết mỗi tác phẩm là một "khám phá về nội dung". Muốn vậy, nhà văn không chỉ là "người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho", mà phải biết "đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Nhà văn  phải  biết  nhì  sâu  vào  cuộc  sống,  hiểu  về  tâm  hồn  của  con  người  để  khám  phá  ra 

những vấn đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng điệu riêng, âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý. 

Cái độc đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách 

riêng của người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ các mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa. 

Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chẳy văn học một cách cảm nhận mới, một 

niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điếu này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển sự phong phú của nền văn học. Mỗi gia đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác. 

Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại 

một  khí  chất,  mang  một  cảm  hứng  chủ  đạo  khác  nhau.  Văn  học  Lí,  Trần,  Lê  lấy  cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà  xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này là một tiếng yêu thương mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái "tôi" cá nhân của mình... Mỗi thờ đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm  hưởng  khác  nhau.  Thú  vị  thật,  độc  đáo  nhất  với  người  đọc  lá  sự  lắng  nghe  những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được điều gì mơi lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng. 

Cũng  viết  về  kỹ  nữ,  nhưng  Bạch  Cư  Dị,  Nguyễn  Du,  Xuân  Diệu,  Tố  Hữu,  mỗi 

người  có  một  cách  nhìn  riêng,  một  cách nói  riêng.  Bằng khúc  "Tì  Bà  Hàng",  thi  sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nối đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát của người kỹ nữ