Phân tích Tây Tiên – Bài 3
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 23 tháng 12 2019 lúc 16:18:15 | Được cập nhật: 6 tháng 5 lúc 17:17:55 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 465 | Lượt Download: 1 | File size: 0.022793 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Phân tích Tây Tiên – Bài 3
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay
trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn
thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng
sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội
trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị
cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị
thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào,
đánh tiêu hao quân đội Pháp ớ Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt
động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền
tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc
đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những
người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn
là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi
thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái
cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao
độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp
đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa
đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái,
những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng
mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho
lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một
giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo
nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ.
Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có
những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây
Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn
học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
Bài thơ gồm bốn đoạn thơ:
Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên
miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng.
Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được
viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân
Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài
thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại
một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt
sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở
nên sổng động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng
ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và
thới gian:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ
“chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho
cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, … liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ bằng bốn câu thơ,
Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu
và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu,
những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật
đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời”
được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người
lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những
ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi,
diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu
thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc
núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp
thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ
bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành
bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những
gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong
Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu
và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan câu Lí Bạch: “Đường xứ
Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thành thiên!).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp
tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái
chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi
cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,… Những tên đất lạ (Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều
vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ
cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa
đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễn tây tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những
người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi
cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi
trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm
giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ
dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây.
Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét
mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất
trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con
người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng
thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc
bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến
góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh
sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người
đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn
vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn
nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy
(“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ
lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông
nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng
tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên
dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà
hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút
của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không
chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần
thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc, phân tích Tây Tiến, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc
(4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê
của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà
quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài
thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ
lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây
Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để
tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái
hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương
tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo.
Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ
thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh
quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn
bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi
bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật
gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt
ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả
với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của
những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những
còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt
trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải
là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn
thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo
rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này,
Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những
đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy
mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề
nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương
lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi
thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh
lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng:
“Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí
tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”). Họ có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng,
mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm:
những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái
nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi
đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông
Mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính
Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn
và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây
Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng
linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và
tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn
gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã
thành thời điểm một đi không trở lại.
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy
trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
4. Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến, Mẫu Số 4
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những
sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến"
là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân
được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948,
Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến"
sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và
bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân.
Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên
thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần
"ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi
lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy
lòng rồi bật lên vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt
các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,
Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho
chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong đêm lạnh
ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp,
vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của
thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy
đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc
xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt
đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên
gấp bội nhờ "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp
nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kĩ vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là
một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ,
người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm
đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm
cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng". Giữa thiên nhiên hoang
sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã
biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước nữa". Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ
Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ
hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng
không ngoa "tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến
với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác
gầm thét". Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ
đến sự ấm áp của con người nơi đây "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm
nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã
cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm
tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những
cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải
ngỡ ngàng "kìa em". Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu
Mộc trong chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh
cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ
thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn binh không mọc
tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta
chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị
chiến đấu "áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá”, "chân không dày"… Chiến sĩ ta nhiều khi
chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên
ngang, uy hùng không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng
lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm
sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ thơ.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của
người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi "chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc
lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào
thay chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất
mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi không hề
"hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm dành lại độc lập cho dân tộc. Tinh
thần " một đi không trở lại" của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy
giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một thi phẩm
tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác
giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm
thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.