Phân tích Người lái đò sông Đà - Bài 2
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 28 tháng 11 2019 lúc 13:45:53 | Được cập nhật: 6 tháng 5 lúc 17:17:43 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 515 | Lượt Download: 3 | File size: 0.018588 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Phân tích Người lái đò sông Đà – Bài 2
Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đ ạt đ ược s ự
cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái m ốc ấy, t ư
tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đ ổi th ế
nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác,
thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đ ẹp. Người lái đò Sông Đà rút
trong tập tuỳ bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau
Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất kí. Nghĩa là
tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, l ịch s ử, dân t ộc h ọc. Nh ưng d ưới ngòi
bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể,
những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật:
người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là
một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có
hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung b ạo và tr ữ tình". Lúc tr ở
mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy
chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì m ừng
vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật c ủa Nguy ễn Tuân - m ột cây
bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác
nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ng ọc trai
đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đ ẻm giao th ừa, v ề
sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung
bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ
Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức
tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc
cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa
đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đo ạn sông b ị ch ẹt gi ữa hai
vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện ". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê
gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ l ừ nh ững
cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi
tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau m ới th ấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân
còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay
phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút n ước
khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu
cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây
toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh nh ư s ắp v ỡ tan
ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng
giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang l ấy gân ng ồi gi ữ ch ặt
ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng l ồ vừa rút
lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì
quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng l ồ.
Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi
lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "r ống lên nh ư ti ếng m ột
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông
lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và h ướng
người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu
hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc g ối, túm th ắt l ưng,
lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời d ậy đất đ ể áp đ ảo tinh th ần
đối phương,...
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đ ỗi êm ả thanh bình.
Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như m ột tiên
nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây tr ời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ng ọc
bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút
cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông n ước". T ừ
những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyền
Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông
đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn
xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguy ệt há D ương
Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ng ơ c ủa dòng
nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ T ản Đà g ửi
"một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh
bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà th ường đ ậm
đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng t ờ. Hình nh ư t ừ
đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một n ỗi ni ềm c ổ tích tu ổi x ưa.
Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt
mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải
ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là nh ững dòng th ơ văn xuôi
của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên l ừng lững hình t ượng
người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc v ật l ộn v ới m ột con
thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả s ử tác gi ả đ ặt ông ta trong khung c ảnh
khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si
tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thu ỷ quái, ông lái đò
nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân v ật s ử thi trong thiên tr ường ca
leo ghềnh vượt thác...
Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân, không thể không lưu ý đến cách tiếp cận riêng của
ông đối với con người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa ngh ệ sĩ. Ở Nguy ễn Tuân
khái niệm này có một nghĩa rất rộng: không ch ỉ thu hẹp ở những ng ười làm ngh ệ thu ật nh ư
thi sĩ, hoạ sĩ hay đào nương, kép hát,... mà gồm bất cứ ai đã đẩy đ ược cái công vi ệc mình
thường làm lên đến độ cao siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn ph ở, giã giò, giã
cốm, thậm chí công việc của tên đao phủ chém đầu người...
Ở đây, ông lái đò cũng được tiếp cận như vậy. Đúng là ông lái đò c ủa Nguy ễn Tuân. Lái đò
như thế thì không còn là chuyện nghề nghiệp thông thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù c ủa
nghệ thuật, nghệ sĩ - nói như tác giả - là "tay lái ra hoa".
Tất cả nghệ thuật của ông lái đò là nắm chắc "quy luật tất yếu của dòng n ước sông Đà".
Làm chủ được quy luật thì có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là một quy
luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, loá m ắt
lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò,
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên t ướng ngày x ưa
tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này
đến vòng khác, mỗi vòng đều có những "viên tướng đá" nham hiểm, quái ác ch ờ s ẵn và quy ết
tiêu diệt bằng được đối phương của mình. Ở đây Nguyễn Tuân lại phải v ận d ụng đ ến nh ững
hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả: nào là đòn dương, đòn âm, đá trái,
thúc gối, phục kích, vu hồi,... Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa t ử,... Ch ỉ là chuy ện
một ông lái đò và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được nh ững trang th ật h ấp d ẫn
mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả với bao
tình huống hồi hộp,... Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng phong phú
lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri th ức thu ộc nhi ều lĩnh v ực
văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì muốn quan sát, mô
tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho đến sơn cùng thuỷ tận, dường như không muốn cho ai nói
thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống cả cấn (dĩ tận vi độ), văn
của ông cũng muốn như thế.
Và ông lái đò đã hiện lên như Nguyễn Tuân mong muốn: một con người tài hoa trí dũng
tuyệt vời đã đánh bại được cái thác nước hung dữ nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng
vây khác "cưỡi lên con thác", "nắm chặt lấy bờm sóng", "phóng nhanh", "lái xi ết", "đè s ấn
lên" luồng sóng này, "chặt đôi" luồng sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, v ượt
qua trùng trùng ải đá "Vút vút cửa ngoài, cửa trong, lại c ửa trong cùng, thuy ền nh ư m ột mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước" để cuối cùng thoát hẳn ra ngoài con thác dữ.
Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguy ễn Tuân mu ốn
nói với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong
cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và
trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình th ường
kia. Cuộc đời của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh
hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.