Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập - Bài 1

Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 3 tháng 1 2020 lúc 17:33:02 | Được cập nhật: 19 tháng 4 lúc 9:53:05 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 501 | Lượt Download: 1 | File size: 0.026699 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập – Bài 1
Ngày 19-8-1945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23-8 tại Huế,
trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25-7, hơn 80 vạn đồng
bào Sài Gòn, Chợ Lớn, quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày,
Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài
80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng
màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng
hỏi: "Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?". Tức thì một tiếng "có" của triệu người cùng
đáp, vang dậy như sấm.
"Việt Nam độc lập muôn năm!" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm
một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:
"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và
của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy".
Có thể nói, bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí
và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách
tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí
Minh.
Nếu như "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn
đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", "Bình Ngô đại cáo" khẳng định một chân lí
lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì "Tuyên
ngôn Độc lập" lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên
ngôn Độc lập" nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản "Tuyên ngôn Độc lập" của nước Mĩ năm 1776: "Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu
cầu hạnh phúc".
Câu thứ hai rút ra từ bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng
Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: "Tất cả các dân tộc
trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do", và đi tới khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Qua
đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lí
tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng
cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là lập dân tộc. Và "Độc lập Tự do - Hạnh phúc" là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư
luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói
đến giá trị lịch sử của "Tuyên ngôn Độc lập" trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và
chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn Độc lập" của
Mĩ và Pháp.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ
tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ
qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng,
bác ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Tác giả đã điểm qua một cách khái quát
và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội
ác khác chồng chất như núi. Đó là 5 tội ác ghê tởm về chính trị và 5 tội ác cực kì dã man
về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để
trị; đàn áp và khủng bố, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc
phiện "để làm cho nòi giống ta suy nhược". Trong "Bình Ngô đại cáo" Nguyễn Trãi đã
nói về tội ác của quân "cuồng Minh": "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con
đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn 500 năm sau, trong "Tuyên ngôn Độc lập", người anh
hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh cũng viết: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường
học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn.
Chữ "chúng" được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai (lập ra
nhà tù nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém
giết), cách dùng hình ảnh (bể máu) - tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh:
súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Năm tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho
"dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều"; cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng ... Lên án chính sách sưu
thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô

lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng". Hàng trăm thứ thuế
vô lí ấy của thực dân Pháp đã bóc lột dân ta đến tận xương tủy.
... "Các hạng thuế, các làng tăng mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò,
(...) Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho đau đớn khôn cùng không thôi!..."
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp.
Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật". Pháp
và Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm hoạ năm Ất Dậu, 1945:
"Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo
nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu
đồng bào ta bị chết đói".
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9-3-1945 Nhật đảo
chính Pháp "quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng". Tác giả châm biếm lên án: "Chúng
chẳng những không "bảo hộ" được ta, trái lại trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho
Nhật!". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy "chúng còn nhẫn tâm giết nốt
số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật,
chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành
chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ
Gồn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu "tái chiếm" Đông Dương, Hồ Chí
Minh hùng hồn tuyên bố: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ
không phải từ tay Pháp".
"Tuyên ngôn Độc lập" có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị
mới: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Từ nô lệ, dân ta đã giành được độc
lập: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước
Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một Nhà nước mới ra đời: "Dân ta lại đánh đổ chế
độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập chế độ Dân chủ Cộng hòa".
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép,
không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trong
lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh "công nhận quyền độc lập của nhân dân
Việt Nam". Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: "thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam". Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống

thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập!".
Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một
lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị
quyết tâm và sức mạnh Việt Nam:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".