Phân tích Cảnh ngày hè
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 22 tháng 8 2019 lúc 14:25:16 | Được cập nhật: 1 tháng 5 lúc 8:56:53 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 536 | Lượt Download: 4 | File size: 0.020477 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Phân tích bài thơ Khe chim kêu Ngữ Văn lớp 10
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 10, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021.
- Đề cương ôn tập kiểm tra giữa học kì II Ngữ Văn 10 chương trình chuyên, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- Đề cương ôn tập kiểm tra giữa học kì II Ngữ Văn 10 chương trình cơ bản, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Ngữ văn 10), trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
- HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA (NGỮ VĂN 10), TRƯỜNG THPT QUỐC OAI - HÀ NỘI.
- TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (TRÍCH CHINH PHỤ NGÂM - ĐẶNG TRẦN CÔN), TRƯỜNG THPT QUỐC OAI - HÀ NỘI.
- Tác giả Nguyễn Du (Ngữ văn 10), trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
- Hồi trống cổ thành Ngữ Văn 10 , trường THPT Quốc Oai - Hà Nội
- Ngữ văn 10 Trao duyên, trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
1. Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Qu ốc âm thi t ập của Nguy ễn Trãi, cái t ựa C ảnh ngày hè k ể
cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới v ẫn nghiêng v ề nh ững g ương báu t ự răn mình,
đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó, bài 43 này, dù không ph ải không có cái ý răn mình,
nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Toàn thi ph ẩm là tâm tình n ồng h ậu c ủa ức Trai tr ước c ảnh t ượng
hưng thịnh của ngày hè. Dù được viết cách nay đã h ơn sáu thế kỉ, nhi ều ngôn t ừ đã tr ở nên x ưa xa đ ối v ới
người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đ ến g ần 20 m ục, nh ưng C ảnh
ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng d ặc, v ượt qua rào c ản ngôn ng ữ r ậm r ịt đ ể đ ến
được với người đọc bây giờ. Điều gì đã khiến cho bài th ơ có được s ức s ống này? S ự tài hoa c ủa ngòi bút
chăng? vẻ tinh tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tâm lòng chàng? Có lẽ không riêng m ột yếu
tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca s ống đ ộng, m ột kiến trúc ngôn t ừ cô đúc d ư
vang.
2. Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí “thi trung h ữu h ọa”,
người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh. Một bức tranh đ ược v ẽ b ằng ngôn t ừ.
Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo lối phân lo ại c ủa h ội h ọa. Th ật là gam màu đ ặc tr ưng c ủa
ngày hè.
2.1. Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập v ới nhau. Ba ch ữ R ồi hóng
mát đã gợi ra hình ảnh một ức Trai trong dịp nhàn r ỗi hiếm hoi nào đó đang hóng mát ngày hè. Nh ưng ba
chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn. Ngày mà dài thì đúng là đã tóm đ ược cai chênh l ệch đêm ng ắn,
ngày dài khá đặc trưng của mùa hè. Nhưng có phải ch ỉ là chuy ện th ời l ượng đ ơn thu ần không? Hình nh ư
còn là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có th ể khi ến m ột con ng ười v ốn ham gánh vác vi ệc
xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường?” Thời ông đang làm r ường c ột b ận b ịu v ới chính s ự
giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư? Không th ể. Khi ấy, ng ười say s ưa hành s ự khó mà c ảm nh ận
về “ngày trường”. Vì thế, chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn c ư mà chẳng th ật thanh nhàn bên
ngoài chính cuộc của ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa c ủa ch ữ, tâm th ế ấy nh ư còn ẩn trong âm
vang của lời. Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác l ạ đối v ới ng ười quen đ ọc th ơ th ất
ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa c ủa những c ảm giác trái chi ều: ng ắn mà l ại dài, mau mà l ại
khoan. Sao thế nhỉ? Có phải vì đó là một câu phá cách: l ời ch ỉ có sáu ti ếng (l ục ngôn), ti ết t ấu ch ỉ có hai
(3/3). Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, m ỗi nh ịp l ại tr ải ra. S ự co giãn này có
hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát/ thuở ngày trường”
Chẳng phải nó tao ra một ngữ điệu khá khác biệt, ch ứa đ ựng nh ững tình đi ệu d ường nh ư cũng trái
chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong? Thong dong mà h ối thúc, nhàn c ư mà b ận tâm, ch ẳng ph ải là cái
tâm thế thường trực ỏ ức Trai hay sao? Có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ng ầm tìm
1
kiếm cho nó kiểu câu trúc ngôn từ như thế trong câu khai mở! Ng ười nghiên c ứu hi ện đ ại có th ể g ọi đó là
sự tham gia sáng tạo của vô thức chăng?
2.2. Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức s ống được hi ện lên qua sắc
độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên tri đã tiễn mùi hương”
Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn c ủa thi sĩ cũng di chuy ển t ừ t ầng không qua hiên
nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức s ống bên trong cũng nh ư đang trào ra. Các t ạo v ật
thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu xanh lục lá hòe thì “đùn đùn” nh ư cu ộn lên t ừng khôi bi ếc,
tán hòe thì “rợp giương” như cử lọng giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son đi ểm s ắc, cũng không
lập lòe dậy lên vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào th ức đỏ, t ựa pháo hoa h ừng sáng c ả hiên nhà. T ừ d ưới
ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi h ương dậy lên bay t ỏa không gian. M ật đ ộ
dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “ti ễn”... đã tạo nên m ột s ự sôi đ ộng đ ằng sau m ỗi
loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng h ưởng b ởi độ gắt của gam
màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.
Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã b ắt đ ược m ột nh ịp v ận hành vô
hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý m ột chút thôi s ẽ th ấy điều này: th ảo m ộc thì ti ếp n ối liên
tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá - hoa - h ương thì ti ếp ứng nhau, nh ất là
cái nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã ti ễn mùi h ương. Loài này đang
thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các t ạo v ật đang đua tranh phô s ắc, khoe
hương.
Có lẽ cần dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác nhau v ề câu th ơ
Hồng liên trì đã ... mùi hương và do đó có hai cách hiểu khác. M ột b ản ghép là “tin”, nghĩa là h ết mùi
hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là “tiễn”, nghĩa là đ ưa t ỏa mùi h ương, di ễn t ả v ẻ th ịnh. Đi li ền v ới
chữ, là cú pháp. Cặp quan hệ từ “còn”... “đã” trong cặp câu th ực bi ểu hi ện quan h ệ cú pháp nào? Không ít
người chỉ thây chúng biểu đạt quan hệ suy giảm: “đang còn”... “dã hét”. T ừ đó đã d ẫn t ới vi ệc hi ểu nghĩa
của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (h ết) mùi h ương. Hi ểu th ế có phù h ợp
không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn tự Nôm, có l ẽ c ần ph ải có thêm căn c ứ v ề văn b ản th ơ
và các quy luật nghệ thuật nữa. Trong nghệ thuật, có quy luật: ti ểu tiết ph ục tùng t ổng th ể chi ph ối ti ểu
tiết. Cảm hứng chung của thi phẩm là về sự sung mãn toàn thịnh c ủa ngày hè. Cho nên các hình ảnh (c ả
thiên nhiên lẫn đời sông) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, m ỗi chi ti ết đ ều ph ải góp mình làm
nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tin” ít có lí. Nó nói cái suy. Tổng thể nói thịnh, ti ểu tiết sao l ại nói suy? Rõ
ràng, “tin” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái th ịnh, m ới c ộng h ưởng đ ược v ới v ẻ
toàn thịnh ấy. về quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ “còn”... “đã”... đâu ch ỉ nói v ề lo ại quan h ệ suy
giảm: “đang còn”... “đã hết”, mà nó còn dùng đ ể chỉ lo ại quan hệ tăng ti ến: “đang còn”... “đã thêm”. Trong
tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. Bởi vậy, nghĩa c ủa hai câu th ơ ch ỉ có th ể là: Th ạch
2
lựu hiện còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. H ương sen, s ắc l ựu ti ếp ứng nhau,
chen đua nhau cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.
2.3. Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè toàn th ịnh v ốn đã
đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Nghĩ cũng thú vị, chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cu ộc s ống này. Lúc đ ương đông bu ổi ch ợ
là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám của m ột cuộc s ống
đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có th ể th ấy được âm vang c ủa đ ời s ống. Âm thanh
“lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên v ẻ sầm u ất c ủa cu ộc đ ời xung quanh. C ả hình ảnh bóng t ịch
dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ b ốn bề, âm thanh sinh ho ạt cũng d ần d ần th ưa th ớt. Lúc
tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đ ều khó tránh kh ỏi không khí qu ạnh hiu
cô tịch.
Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi nh ư m ột bản đàn làm
cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là m ột tâm h ồn m ở, m ột đi ệu h ồn náo n ức thì m ới có th ể nghe
tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng ng ư phủ xa xa c ủa dân nghèo l ớp d ưới, đ ến l ầu
son gác tía của người lớp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm đ ược toàn, c ảnh
cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa. Trước, vẽ thiên nhiên thì t ừ cao xu ống th ấp, gi ờ, v ẽ đ ời s ống l ại tr ải t ừ
thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt nh ững âm thanh lao xao và d ắng d ỏi lên đ ầu
mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ nh ư ng ười viết đang mu ốn ph ổ vào không gian c ả
một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
2.4. Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã ph ần nào th ấy đ ược lòng ng ười v ẽ c ảnh. Ph ải, c ảnh
tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm h ồn, đó còn là sự ph ấn ch ấn c ủa m ột t ấm lòng thi ết
tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha v ới đ ời s ống. Nh ưng
ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đ ủ kh ắp muôn ph ương.
Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người dám mang trong mình ước nguy ện kia ph ải
là ai vậy? Một thi sĩ đơn thuần thôi sao? Một công th ần khanh t ướng thôi sao? Nh ững k ẻ ấy dám m ơ đ ến
việc cầm trong tay cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đ ời, v ề ph ận v ị, Nguy ễn Trãi là m ột
công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát v ọng riêng t ư nh ất, ông đã b ộc l ộ khát khao
lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là th ần tượng c ủa lịch s ử. Đi ều này có gì là không chính
đáng đâu. Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn.
Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chỉ để ca ngợi cu ộc s ống phong túc hi ện th ời thôi sao? Không.
Dù cảnh tượng bày ra nhỡn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó v ẫn chưa khi ến ông th ỏa nguy ện. Ông
muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong đ ể c ầu mong cho dân tình phong túc h ơn n ữa. Ông
3
mong muốn có một cuộc sống thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng su ốt m ột đ ời Nguy ễn
Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn t ộc c ủa mình. Ch ẳng th ế mà ông c ần ph ải đúc nó
vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ng ấn lại, nh ư đ ể ghim sâu đi ều đau đáu c ủa cõi lòng. Thì đó
là khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời “âu việc nước” chứ sao!
Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuy ệt v ời gi ữa tâm h ồn và nét bút c ủa m ột đ ấng
tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
4