Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập - Bài 2
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 3 tháng 1 2020 lúc 17:17:15 | Được cập nhật: 7 tháng 5 lúc 12:31:05 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 483 | Lượt Download: 1 | File size: 0.019407 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập
Bài số 2
Trong văn học Việt Nam, ít có tác phẩm nào hàm chứa nhiều giá trị như Tuyên ngôn
Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong rất nhiều giá trị đó, người ta nhắc nhiều đến
giá trị sử học và văn học. Nhìn từ những góc độ khác nhau, hai giá trị này hoà quyện,
xuyên thấm. Trên cơ sở thực tiễn và lập luận chặt chẽ đã tạo nên sức hấp dẫn, sức thuyết
phục cho văn bản.
Khi HCM đọc bản tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội
Anh đang tiến quân vào Đông Dương; còn ở phía Bắc 20 vạn quân Tưởng tay sai của đế
quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới. Vậy đối tượng của bản tuyên ngôn không chỉ là đồng
bào cả nước, là nhân dân thế giới nói chung; mà trước hết là bọn thực dân, đế quốc đang
âm mưu tái chiếm nước ta.
Bản tuyên ngôn đã giải quyết vấn đề bức thiết ấy với những lập luận chặt chẽ và đanh
thép ngay từ phần mở đầu. HCM mở đầu bản tuyên ngôn bằng cách trích dẫn lời hai bản
tuyên ngôn bất hủ của Mĩ và Pháp: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của
nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp).
Bởi lẽ bấy giờ, tư tưởng tiến bộ của những nước lớn, nước tư bản đang có ảnh hưởng
mạnh mẽ trên thế giới. Việc trích dẫn tuyên ngôn của hai nước lớn Pháp và Mĩ sẽ dễ tạo
được thông suốt, sự công nhận tức thời, được nhiều nước thừa nhận. Nếu thế giới đã công
nhận quyền độc lập, tự do, dân chủ , bình đẳng của Mĩ, của Pháp thì sẽ phải công nhận
quyền độc lập tự do của Việt Nam. Bản tuyên ngôn của Việt Nam đã có một cơ sở pháp lí
chính nghĩa rất vững vàng.
Cách trích dẫn ấy còn là chiến thuật sắc bén của HCM_ khéo léo và kiên quyết. Khéo
léo, vì HCM tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp , người Mĩ. Kiên
quyết vì HCM đã nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ
nhân đạo và chính nghĩa của ngững cuộc cách mạng vĩ đại. Ngoài ra mở đầu như thế còn
có ý nghĩa gợi lên niềm tự hào dân tộc to lớn. Bản tuyên ngôn nước ta đặt ngang hàng với
hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn: Pháp và Mĩ, tức là đặt ngang hàng ba cuộc cách
mạng, ba nền độc lập, ba quốc gia. Thật đáng tự hào , vì cuộc cách mạng tháng Tám 1945
đã giải quyết nhiệm vụ của cả cách mạng Mĩ(1776) và cách mạng Pháp(1791). Bản tuyên
ngôn đã nêu rõ : “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây
dựng nên nước Việt Nam độc lập “, đó là nhiệm vụ của cách mạng Mĩ: đấu tranh giải
phóng dân tộc; và “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế
đọ Dân chủ Cộng hòa”, đó là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân
quyền của Pháp.
Từ những lí lẽ trên, HCM trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy. Quyền tự do, độc lập ấy phù hợp với “lẽ phải không ai chối cãi
được”, là kết quả đấu tranh xương máu, bền bỉ của biết bao con người suốt gần 100 năm.
HCM đã khẳng định: “sự thật đã thành nước tự do, độc lập”. Nghĩa là, nền độc lập không
phải cái ta cần phải có, mà nó đã là sự thật, ta đã có, đã giành được. Từ nay nước Việt
Nam độc lập tự do đã được cả thế giới công nhận. Song do chính quyền cách mạng còn
rất non trẻ đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất, vì thế HCM không thể nói
như Nguyễn trãi xưa:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Bởi, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta khi ấy là bọn
thực dân Pháp còn đang âm mưuntái chiếm nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc
chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Theo tư tưởng HCM cho rằng : “Độc lập tự do là
quyền thiêng liêng nhất, là tài sản quý giá nhất mà mỗi dân tộc cần giành và giữ lấy”.
Trong phần tuyên ngôn chính thức này, một lần nữa HCM lại sử dụng cách lập luận hết
sức chặt chẽ, sắc sảo của thể loại văn chính luận.
Bản tuyên ngôn chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó nêu
cao tinh thần, khát vọng tự do, hạnh phúc cảu dân tộc Việt Nam, đánh dấu trang sử vẻ
vang nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn
chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam.