Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến
Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 6 tháng 8 2020 lúc 10:44:22 | Được cập nhật: hôm qua lúc 10:27:24 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 235 | Lượt Download: 2 | File size: 0.022016 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến – Quang Dũng
Tây Tiến là một trong những bài thơ đặc sắc nhất, hay nhất viết về người chiến sĩ cầm
súng để bảo vệ Tổ quốc cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với bút
pháp lãng mạn và với cốt cách tài hoa phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩQuang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và vào lòng người hình ảnh chiến sĩ
vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Tác phẩm là một thi
phẩm hay mà ở đoạn nào cũng có những câu thơ đặc sắc, những hình ảnh thơ cực kì độc
đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ ở đây lại chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và
tinh thần bi tráng khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – những người lính cách
mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của
dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy cảm
xúc, luôn hướng về lí tưởng. Cảm hứng này luôn đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ,
phi thường độc đáo nhất. Theo trích tự thì ta hiểu ‘lãng mạn’ tức là sóng tàn bờ, vượt qua
mọi giới hạn gò bó để thoát lên. Cảm hứng lãng mạn có ngôn ngữ giàu tính biểu cảm
thực sự tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ
1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng cho
cuộc sống mới, vẻ đẹp con của người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin
yêu vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Với cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng
chủ đạo trong nhiều sáng tác, nó nâng đỡ cho con người có thể vượt lên mọi thử thách
trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn được thể hiện rất đậm nét trước hết ở cái tôi của nhà thơ Quang
Dũng. Cảm hứng này cứ trào ra từ đầu bài thơ đầy ăm ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ , nỗi
nhớ được gọi tên ‘nhớ chơi vơi’, một nỗi nhớ rất lạ và riêng biệt chỉ có Quang Dũng và
những người lính Tây Tiến mới hiểu được.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ đó cứ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp. Nỗi nhớ đến hụt hẫng, trống vắng
trong lòng mỗi người. Tây Tiến là tên gọi một đoàn quân, nhưng tiếng gọi “ơi” lại trìu
mến như tiếng gọi với một người thân của mình vậy. Ba vần “ơi” như da diết hơn, vang
vọng hơn vào vách núi. Đó chính là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và với đoàn quân
Tây Tiến. Nỗi nhớ đó cứ da diết mãi không thôi, lan tỏa thấm đượm trong từng chữ từng
câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt ở khắp mọi nơi, lắng đọng từng chỗ, từ
cảnh chiến trường hiểm trở và hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến
đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em
thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện rõ nét trong bút pháp lãng mạn
thi vị hào hoa của Quang Dũng. Các thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi
hơn, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng,hào
sảng hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên. Thiên nhiên miền Tây Bắc qua
ngòi bút lãng mạn của thi sĩ Quang Dũng được cảm nhận với những vẻ đẹp đa dạng, vừa
độc đáo những cũng vừa hùng vĩ dữ dội. Đối lập với đó là thơ mộng trữ tình là hoang sơ
mà ấm áp có sức mạnh làm say đắm lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng độc đáo đã
khiến cho thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà
còn có cái lãng đãng mông lung, huyền ảo, cảm nhận được cái oai linh của núi rừng đại
ngàn, thấy được “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên
khúc độc hành”.
Nhà thơ thương nhớ đến nao lòng về những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng
đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm của các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh
niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường có thể liệt kê ra
như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao
nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại rất nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút và hoang sơ. Nó
vừa gợi ra được sự gian nan, bí ẩn đầy thách thức, vừa gợi lại sự tò mò, háo hức của
những chàng trai nơi phồn ho đô hội của mảnh đất hà thành. Tất cả khung cảnh thiên
nhiên đều được tác giả khắc họa với ấn tượng mạnh nhất, đáng nhớ nhất. Đoàn binh Tây
Tiến hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng
ngay cả trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra những vẻ đẹp
của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa của núi với hương thơm ngào ngạt hiện ra
dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê và lãng mạn đã khiến cái mệt mỏi
của đoàn quân dường như tan biến hết. Bao đèo cao cũng qua, dốc thẳm dựng thành phía
trước mà người chiến sĩ Tây Tiến vẫn miệt mài cần mẫn vượt qua.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì quá khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo còn dốc xuống thì thăm thẳm, dựng
đứng. Câu thơ như bẽ gãy làm đôi vì nhịp điệu cũng như hình ảnh gợi hình. Dốc núi
ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước, khung
cảnh thật nguy hiểm và đầy ải sự khó khăn. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc
cùng với cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp hơn. Độ
cao của dốc núi như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo đầy khó
khăn. Những đỉnh núi cao mù sương như chạm tới mây, mây lại nổi thành cồn heo hút ở
lưng chừng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến sĩ cụ Hồ được nhân hóa tạo thành
hình ảnh tươi vui đậm chất lính “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất vừa hàm
chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên, tếu táo rất lính của
người chiến binh Tây Tiến.
Thiên nhiên thì hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi
lên đầy thách thức. Người chiến sĩ Tây Tiến bỗng như trở thành một tượng đài mà thiên
nhiên kì vĩ bủa vây xung quanh cũng không hề lấn át được. Điều đó khẳng định được ý
chí cao ngất ngưởng của những người lính Tây Tiến. Cảnh đoàn quân đi trong mưa được
Quang Dũng miêu tả một cách táo bạo: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” dữ dội mà nên
thơ. Mưa giăng mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp
thoáng trong mưa cũng như bồng bềnh nổi trôi trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng
gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trải dài từ trên cao trải
xuống. Trong màn mưa rừng đó thì tầm nhìn của người lính Tây
Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các
anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.
Gian khổ với các chiến sĩ Tây Tiến còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man
dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng
đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở
những khoảng thời gian như “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả Quang Dũng thật tinh tế
khi miêu tả thời gian gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như
trong bóng tối vậy. Nó luôn luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt
những người lính Tây Tiến họ lại là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành
phố đến rừng đại ngàn nơi đây. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa xôi, lạ
hoắc, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Những cảnh ấy
cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt đó lại là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Vẻ
đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng những bông hoa rừng đẹp đẽ
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn
thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tất cả đều gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh
mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật dường như nhòe đi, như mềm mại và có hồn
hơn. Chữ “ấy” ở câu thơ trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm
điệu. Hoa lau nở trắng sáng cả một vùng trời, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là
những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn
lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên
thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả
thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ vừa như ẩn
dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông
nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của
cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn,
trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của
các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được
gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao
ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính
tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp
mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Một gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm
vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một
nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ đó đã cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản
Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ
ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.
Trong những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh
lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa đắm đuối
của người lính trẻ.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng như thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc
hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh biết bao ước mơ, hạnh phúc.
Hai chữ “kìa em” đã diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ
nơi Hà thành. Hình ảnh của các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm
rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ
như múa sạp, múa xòe… trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi
cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ cụ Hồ như mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp của những đêm liên
hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng,
giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ trở lên hân hoan, say
mê về hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình.
Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của
đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ
thể hiện ở hai câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cả đoàn binh không mọc tóc vì những cơn sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương
cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không hề né tránh
hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng
thường hay nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run
người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của tác giả Chính Hữu.
Nhưng tác giả Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng
nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ
thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và
mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên
ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút
lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh
đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt
quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên
ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn
những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành,
bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn
những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan,
yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Tinh thần bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không
né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi
tráng, hào hùng. Nói về cái chết đó nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt,
cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc
tráng lệ hào hùng.Được biểu hiện ở tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở
chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái
chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất
tử.
Trên nền thiên nhiên của Tây Bắc dữ dội và huyền ảo ấy, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn
quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện
thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói
đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến
tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa
lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc
động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh
những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó,
nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo
mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận
mà còn vượt lên cái chết, sãn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân
tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng
hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là
cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ
trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì
cái chết có nghĩa lí gì với họ.
Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh thì ở
đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo
đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạc nên sự hi sinh bất tử. Sự kết hợp một từ Hán
Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở nên trang trọng.
Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng,
thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang
lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng
Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn,
có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ
dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi
tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở
thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp,
nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương
và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn
các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh
cao, kì diệu của nó.
Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu
đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những
cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt
trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hi sinh
với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp
bi hùng. Chiến trường Tây Tiến dường như trở lên ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh
sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là
cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi
nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang
Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào
hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh
cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây
Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây đã sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng
của thi nhân và cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng
mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và
chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách
quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng
để trào ra cảm hứng lãng mạn và bật thành tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn
thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện – Tây Tiến.
Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau,
cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của
chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống
cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình
trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của
Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời
kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của
một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi
tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của
một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Tiếng thơ chất chứa tinh thần bi tráng và
hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh
chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu
tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.