Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

SOẠN BÀI NGỮ VĂN 8 - HAI CHỮ NƯỚC NHÀ

a615a8d4e912fb837e4a02d3857efe72
Gửi bởi: Yêu Doc24 10 tháng 6 2016 lúc 18:23:39 | Được cập nhật: 8 tháng 5 lúc 1:27:20 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 423 | Lượt Download: 0 | File size: 0 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

SOẠN BÀI NGỮ VĂN 8BÀI: HAI CHỮ NƯỚC NHÀI. KIẾN THỨC CƠ BẢN1. Về tác giả:Trần Tuấn Khải (1895-1983) bút hiệu Nam, quê làngQuang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông thường mượn những đề tàilịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật để bộc lộ lòng yêu nước của đồng bàovà bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình.Tác phẩm chính của Trần Tuấn Khải bao gồm các tập thơ: Duyên nợ phù sinh I, II; Bút quan hoài I,II; Với sơn hà I, II…2. Về thể loại:Song thất lục bát là thể thơ cách luật cổ điển thuần tuý của Việt Nam. Đơnvị cơ bản là một khổ thơ gồm hai câu bảy chữ và hai câu sáu tám tiếptheo. Nếumở đầu bằng hai câu sáu tám trước thì gọi là lục bát gián thất Trừ điểm sai biệt rất nhỏ này, lục bát gián thất hoàn toàn thống nhấtvới song thất lục bát về cội nguồncũng như cách luật. Song thất lục bát ,do đó, có thể được xem là một thuật ngữ chung.Song thất lục bát được hình thành trên cơ sở tổ hợp thể thơ lục bát nhưng không phải với thể thấtngôn của Trung Quốc mà với lối thơ bảy tiếng vốn có của Việt Nam:– “Bói ra ma quét nhà ra rác”.– “Được lòng ta, xót xa lòng người”.– “Giọt máu đào hơn ao nước lã”.(Tục ngữ)– “Ăn, thì ăn cơm thừa canh cặnĂn, thì ăn môn sượng khoai sùng”.(Lục súc tranh công)– “áo xông hương của chàng vắt mắc,Đêm em nằm, em đắp lấy hơiGửi khăn, gửi túi, gửi lời,Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”.(Ca dao)Qua sự gia công dần dần của nhà văn, đến thế kỉ XVIII, song thất lục bát đã đạt đến mức hoànthiện qua tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, và dịch phẩm của Đoàn Thị Điểm, PhanHuy Vịnh, v.v… Ngày nay song thất lụcbát vẫn còn sức sống của nó. Trong Bamươi năm đời ta có Đảng Tố Hữu sử dụng thể thơ này khá thành công.ở dạng hoàn chỉnh nhất, song thất lục bát tuân theo cáchluật như sau. Về gieo vần: tiếng cuối câu bảy trên bắt vần trắc xuống tiếng thứnăm câu bảy dưới; tiếng cuối câu bảy dưới bắt vần bằng với tiếng cuối câu sáu;tiếng cuối câu sáu lại bắt vần bằng với tiếng thứ sáu câu tám; tiếng cuối câutám lại bắt vần bằng với tiếng thứ ba, hoặc tiếng thứ năm của câu bảyđầu củakhổ thơ sau. Như thế mỗi khổ thơ có một vần trắc và ba vần bằng. Trừ câu sáuchỉ có vần chân, ba câu kia vừa có vần chân vừa có vần lưng. Về phốithanh, thìtiếng thứ năm và tiếng thứ bảy của câu bảy trên nhất định phải bằng và trắc,câu bảy dưới thì ngược lại. Bằng trắc trong hai câu sáu tám giống như trong thơlục bát. Về ngắt nhịp, thì hai câu bảy theo đúng như thơ bảy chữ Việt Nam,nghĩa là 3/4 hoặc 3/2/2. Hai câu sáu tám cũng linh hoạt như thơ lục bát.[…] Cũng như lục bát, song thất lục bát đã cô kết đượcnhiều phẩm chất thẩm mĩ của tiếng Việt, nhất là về phương diện nhạcđiệu… Nếucâu thơ lục bát có khả năng miêu tả và kể chuyện thích hợp với loại truyện, thìsong thất lục bát lại giàu giá trị biểu cảm, nhiều sức biểu hiện những trạngthái tâm hồn và xúc cảm, thích hợp với các khúc ngâm dài” (Phương Lựu Từ điểnvăn học, tập hai, 1984).3. Về tác phẩm:a) Thời quân Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn PhiKhanh, đại thần của triều đình, bố của Nguyễn Trãi bị chúng bắt đưa sang TrungQuốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng cha già nhưng Nguyễn Phi Khanh đãkhuyên con lại để đền nợ nước, trả thù nhà. Đến biên giới thì hai cha conchia tay nhau. Nguyễn Trãi tìm đến gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau đó, bằngngòi bút của mình, đã đóng góp phần rất lớn trong việc đánh tan quânxâm lược, giảiphóng đất nước.b) Xúc cảm buồn đau được thể hiện bằng một giọng thơthống thiết, lâm li. Thể thơ song thất lục bát rất thích hợp với cảm xúc vàgiọng điệu này. Hai câu bảy chữ như trào dâng, dồn dập. Hai câu lục bát dadiết, chậm mà xoáy sâu, nhức nhối. Những thanh trắc câu bảy, hiệpvần haicâu lục bát làm tăng nhạc tính từng khổ thơ:*Bối cảnh không gian biên ải được gợi ra câu thơ đầu– Từ điểm chia li này, người cha sẽ ra đi vĩnh viễn, vĩnhbiệt tổ quốc, vĩnh biệt những người ruột thịt. Cảnh vật sầu thảm thê lương (ải Bắc mây sầu gió thảm hổ thét chim kêu …) càng gợi buồn đau cho lòng người.– Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của nhân vật trữ tình (4câu thơ tiếp): cha bị áp giải sang Tàu, một đi không trở lại, con muốntheo chađể làm tròn đạo hiếu nhưng thù nhà nợ nước còn đấy, cha đành dằn lòng khuyêncon lại vì nghĩa lớn. Tâm trạng đau đớn, xót xa vì chia li và cũng vìthùnhà nợ nước chưa trả.Những câu thơ mở đầu đoạn có tác dụng tạo tiền đề, tâmthế. Trong không gian và tâm trạng chia li đau buồn như thế lời khuyên củangười cha (thể hiện đoạn sau) có nghĩa như những lời trăng trối thiêngliêng.* 20 câu thơ tiếp theo (phần 2) có sự kết hợp giữa tự sự(kể), miêu tả và biểu cảm. Những vần thơ thấm đẫm huyết lệ có sức lay động lớn– Bốn câu, từ GiốngHồng Lạc …” đến “… xưa nay kém gì ”: tác giả nhập vai vào người cha (Nguyễn Phi Khanh) để gợi nhắc chocon về niềmtự hào dân tộc.– Tám câu tiếp, từ Thanvận nước …” đến “… dễ còn thươngđâu gợi tả thực cảnh thương đau của đất nước khi bị xâm lăng. Lưuý cáchình ảnh khói lửa bừng bừng xương rừng máu sông thànhtung quách vỡ bỏ vợ lìa con xiêu tán hao mòn .– Bốn câu tiếp, từ Thảmvong quốc …” đến “… lầm than nỗinày trực tiếp thể hiện nỗi đau mất nước, xót xa trước cảnh nòi giống lầm than ”. Lưu những từ ngữdiễn tả cảm xúc kể sao xiết kể, nhường xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than.– Bốn câu, từ KhóiNùng Lĩnh …” đến đàn sau đó mà? nỗi uất hận ngút trờithấm tràn sông núi, dày vò lòng người. Lưu các từ ngữ xây khối uất vật cơn sầu càngnói càng đau lấy ai tế độ Ngườicha đang trở lại với bầu tâm sự muốn nhắn nhủ cùng con.c) Phần cuối đoạn trích người cha nói đến tình thế bấtlực của mình tuổi già sức yếu lỡsa cơ ), nhắc nhớ sự nghiệp của tổ tông vìnước gian lao để kích thích cái chí gánh vác giang sơn, đặt niềm tin, traogửi cho con trả nợ nước, báo thù nhà.d) Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủpháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải lựa chọn chuyệnchia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắmtâm sự, nỗiđau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnhliệt, với một giọng điệu thống thiết, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiệnbổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôithúc lòngngười, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNGBài thơ được viết theo thể song thất lục bát, trong đó cócâu song thất có nhịp 2/2 và 4/4 cần tập đọc nhiều lần để thể hiện đúng nhịpthơ, giọng thơ. Hai câu song thất đọc nhịp ngắt dứt khoát, hai câu lục bát đọcchậm, dàn trải hơn để thể hiện những cảm xúc kín đáo sâu xa.Trên đây chỉ là phần trích dẫn 10 trang đầu của tài liệu và có thế hiển thị lỗi font, bạn muốn xem đầyđủ tài liệu gốc thì ấn vào nút Tải về phía dưới.