Cái nhìn của Nam Cao về người nông dân qua truyện ngắn Lão Hạc
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 14 tháng 11 2019 lúc 20:07:30 | Được cập nhật: 30 tháng 4 lúc 8:53:45 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 711 | Lượt Download: 4 | File size: 0.028365 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề cương ôn tập Văn 8 học kì 1 năm 2018-2019
- Tiết 39-Thông tin về ngày trái đất năm 2000
- 3 bài phân tích Chiếc lá cuối cùng
- Chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ Văn 8
- Lão Hạc - Nam Cao
- CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO VÀ KÍ ỨC TUỔI THƠ QUA ĐOẠN TRÍCH TRONG LÒNG MẸ
- Hệ thống văn bản Ngữ văn 8
- TỔNG HỢP KIẾN THỨC VĂN 8 KÌ 2_TÀI LIỆU HỌC TẬP VIP
- Cô bé bán diêm
- Khi con tu hú
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Cái nhìn của Nam Cao về người nông dân qua truyện ngắn Lão Hạc
Trong giai đoạn 1930 - 1945, có lẽ những tác phẩm văn học hiện th ực đạt đến đỉnh cao nhất
đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân. Trong tác phẩm ấy, Lão Hạc đ ứng ở m ột
vi trí vô cùng quan trọng và đã gây được ấn tượng sâu sắc đối v ới ng ười đ ọc b ởi cách nhìn
người nông dân của Nam Cao. Đó là cách nhìn của một con người đồng cảm với n ỗi đau kh ố
của người nông dân, gần gũi, yêu thương và nhìn ra những phẩm chất cao quý của họ.
Trước hết, ta phải đề cập tới cuộc sống con người của nông dân, cu thể là lão Hạc, nhân vật
chính, qua cách nhìn của các tác giả. Nam Cao đã thấy được một cuộc sống hiện đại tại kh ổ
đau, cùng cực của ông lão và tác phẩm đã phản ánh rõ nét. V ới ngòi bút s ắc sảo mà g ợi c ảm
của một nhà văn hiện thực lớn, người đọc thực sự cảm nhận được nỗi đau cả về vật chất
lẫn tinh thần của lão Hạc. Lão sống một cuộc đời nghèo khổ với số tiền ít ỏi “bòn vườn” và
“làm thuê”. Nhưng Nam Cao không chỉ nói thế, nhà văn đã dám nhìn thẳng vào cái cuộc s ống
vật chất không phải dành cho con người của lão Hạc cho dù nó có đau xót bi ết bao. B ởi l ẽ,
Nam Cao là nhà văn hiện thực, ông không ưa cái nhìn bóng bẩy bên ngoài, không c ố v ươn lên
những cái được coi là “tươi đẹp” của một số ngòi bút lãng mạn đương thời, ông không tìm
đến một sự thoát li, mà lại dùng ngòi bút chân thật nhất, trung thành nhất của một người thư
ký trong cuộc đời. Và ông cùng đã mang theo ngòi bút, cách nhìn ấy vào Lão Hạc và nó trở nên
sâu sắc hơn ở đây. Nếu như Ngô Tất Tố nhìn vào người nông dân trong n ỗi đau kh ổ vì thu ế
thân, một thứ thuế dã man, độc ác, một thứ thuế bất công bắt con người phải trả tiền cho
chính cái mạng sống nhục hơn chó cùa mình: nếu như Nguyền Công Hoan khắc h ọa hình ảnh
người nông dân trong đắng cay, tủi nhục vì bị lừa bịp, cướp ruộng, thì Nam Cao lại có cách
nhìn thật khác. Có khi nếu người đọc vô tình không để ý thì có nh ận ra đ ược cái nhìn “th ấm
sâu” ấy đâu. Và ta sẽ khẳng định lão Hạc khổ là “tự lão” đấy chứ, giống nh ư ng ười v ợ c ủa
ông giáo đã nói vậy. Và như thế, thì là cũng tự lão ăn củ mài, củ chuối để tự đọa đày tấm thân
mình đấy chứ. Nhưng không, Nam Cao đã thấy được một cách rõ nét nh ất s ự thi ếu th ốn vô
bờ về vật chất của lão Hạc: cái khổ vì chăm làm mà không ai thuê, cái khổ trong cảnh: Làng
mất vó sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào h ọ tranh nhau
làm tất cả ..., cái khổ vì tiền dành dụm được của lão sau một trận ốm đã hết sạch sành sanh.
Đau xót lắm chứ, cơ cực lăm chứ ở đây đâu có xuất hiện thứ thu ế thân, đâu có xuất hi ện m ột
tên quan huyện gian tham nào đâu mà người nông dân vẫn vô cùng tủi nh ục. Đó chính là cái
nhìn của con ngươi thông cảm nhất với người nông dân, hiểu thấu nhất n ỗi đau đ ời “bình d ị”
mà xót xa nhất của họ. Bằng trái tim tha thiết, Nam Cao lại dám nhìn sâu vào n ỗi kh ổ c ủa
người nông dân một cách trực tiếp nhất mà có khi chính tác giả cũng đang nhòa l ệ. Trong
những ngày cuối đời, lão Hạc sợ ăn vào tiền của con nên lão bán đi c ậu Vàng - con v ật mà lão
yêu quý, dành dụm hết tiền để đưa cho ông giáo, rồi tự “kiếm ăn”. Đúng, lão “kiếm ăn” như
một “con vật”. Nghe mà tàn nhẫn quá, nhưng đúng là như vậy, bởi vì cái con ng ười ph ải ăn
các loại củ, mò trai mò hến cẩm hơi thì đâu còn là cuộc sống cuộc đời của con ng ười n ữa
đâu. Ôi! Cái nhìn của Nam Cao vào nỗi khổ vật chất của người nông dân mới đau đớn xót xa
và trực tiếp, dũng cảm biết bao.
Nếu cái nhìn của Nam Cao về người nông dân chỉ dừng lại ở cuộc sống vật chất của họ thì ta
cũng thấy nó sâu xa, đau lòng lắm rồi. Nhưng Nam Cao còn là một người gần gũi với nông
dân nên tác giả còn nhìn sâu hơn vào nỗi đau tinh thần của họ. Nam Cao đã hiểu được nỗi đau
về tinh thần tưởng chừng như không thể có trong cái con người mà chất “con” nhiều hơn của
Chí Phèo thì ở lão Hạc, cái nỗi đau khổ lại càng thấm thía h ơn. Nam Cao đã th ấy đ ược nh ững
nỗi đau về mặt tinh thần, xuất phát từ vật chất nhưng xót th ương hơn nhiều của người nông
dân. Đó là nỗi đau của người chồng mất vợ, của một người cha mà đứa con duy nhất ph ải
phẫn uất bỏ đi xa vì tình yêu tan vỡ. Nỗi lo lắng cho số phận của người con ở đ ồn đi ền cao
su là nỗi đau cùng cực mà lão Hạc phải chịu đựng. Nam Cao đã nhìn ra n ỗi đau đó t ừ nh ững
lời than thở của lão Hạc với ông giáo từ những ngày ông cặm cụi, một thân một mình bên con
chó, kỉ vật của anh con trai để lại, từ những lời nói tưởng chừng như vô cùng “l ẩn thẩn” c ủa
lão với con chó: Cậu có nhớ bố cậu không? ... Có nghĩa đó là những việc bình thường nhất
trong cuộc sống hàng ngày của người nông dân, thế nhưng nó mới da diết lẳng lặng mà đau
vào “tận tâm” biết bao nhiêu. Không dừng lại ở đó, Nam Cao còn nhìn th ấu cái n ỗi đau đ ớn,
ân hận của lão Hạc khi lão bán đi cậu Vàng. Bán chó là một chuyện nhưng bán đi cái niềm vui
nhỏ nhoi cuối cùng, bán đi “cái người bạn” ngày đêm cặm cụi bên lão thì lại là chuyện khác.
Nó đau đớn đến nỗi miệng lão méo xệch, hai hàng nước mắt chảy ra và tự cho là mình làm
việc thất đức, già rồi mà “nỡ lừa con chó” . Ôi, nó mới đau khổ, thấm thía làm sao! Nam Cao
nhìn vào nỗi khổ của người nông dân mà viết lên một cách sâu lắng nh ưng m ạnh m ẽ nh ư
chính mình đau vậy.
Không chí thế, Nam Cao còn nhìn thấy những phẩm chất cao đẹp của lão Hạc trong suốt cuộc
sống không phải là con người. Lão mang trong mình một trái tim yêu th ương n ồng h ậu. M ột
lần nữa, cái nhìn của Nam Cao lại bộc lộ nét độc đáo và sâu xa ở đây. Nam Cao không ch ỉ
nhận thấy tình thương của con người với con người như tình cảm vợ chồng, làng xóm trong
Tắt đèn của Ngô Tất Tố, như tình cảm bỗng dưng trào lên trong Chí Phèo khi hắn ng ửi th ấy
cái mùi vị thơm ngon trong bát cháo hành của Thị Nở mà lại nhìn thấy từ tình th ương v ới con
vật. Lão ăn gì cũng gắp cho nó, âu yếm như một bà mẹ chăm sóc đ ứa con c ầu t ự, khi bán con
chó đi thì đau đớn khôn cùng. Yêu con vật mà Nam Cao đã viết đ ến m ức nh ư vậy thì con
người còn mênh mông đến nhường nào. Nam Cao còn nhận thấy và trân trọng những phẩm
chất tự trọng, lương thiện, nhân ái của lão Hạc, trong cách đối xử với mọi ng ười, trong tình
yêu với con. Lão dành dụm tiền, ăn củ mài củ chuối để sống ch ỉ vì th ương con, lo cho con.
Nam Cao nhìn thấy bản chất lương thiện của lão Hạc một cách sấu sắc hơn cả trước cái chết
của lão. Có thể lão Hạc là một nhân vật trong cuộc đời mà cũng có th ể là hình t ượng mà Nam
Cao xây dựng nên. Nhưng dù gì đi nữa thì cái chết của lão Hạc là chi ti ết thành công nh ất c ủa
tác phẩm và cũng là chi tiết nêu bật cái nhìn người nông dân c ủa Nam Cao. Tác gi ả th ấy h ọ
lương thiện đến mức thà chết chứ “không làm bậy”, tự trọng đến mức chết cũng sợ làm
phiền bà con hàng xóm. Trong tác phẩm, Nam Cao không chỉ làm nổi bật lên ph ẩm chất c ủa
người nông dân quen cái nhìn trực tiếp mà còn khéo léo thể hiện qua cái nhìn của những con
người khác. Nam Cao để cho vợ ông giáo cằn nhằn, để cho cô ta nhìn lão H ạc v ới con m ắt
không thiện cảm. Nam Cao lại để cho Binh Tư nhìn vào lão Hạc với cái cười khẩy và kh ẳng
định rằng: Gớm, thế mà cũng bảo là trong sạch. Chẳng qua là lão cũng chỉ bình th ường thôi.
Lão vừa xin tôi ít bả chó để hôm nào “làm một bữa”. Nhưng đâu phải th ế, cái nhìn tr ực ti ếp
của nhà văn lại không cực đoan như vậy. Nam Cao đã nhìn thẳng vào người nông dân đ ể mà
bênh vực cho phẩm chất của họ. Lão Hạc chết đau đớn dữ dội cuộc đời chưa hẳn đã đáng
buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác. Lão Hạc chết trong lòng
lương thiện và tự trọng. Có lẽ đó là cái nhìn tươi đẹp nhất, trong sáng nhất v ề con ng ười
nông dân của Nam Cao.
Bên cạnh đó, nói về cách nhìn về con người nông dân của Nam Cao, chắc ch ắn còn ph ải đ ề
cập đến cảm hứng nhân văn dạt dào của tác giả. Chính vẻ đẹp của người nông dân trong đói
khổ, cay cực đã xuất phát một cái nhìn yêu thương tha thiết nhất. Nam Cao đã trân trọng, nâng
niu. bênh vưc mạnh mẽ người nông dân. Ông bênh vực họ gián tiếp hay trực tiếp đều làm nổi
bật lên cái nhìn yêu thương, cái nhìn của những con người đồng khổ. Nam Cao đã không ch ỉ
nhìn ra nỗi đau khổ trực tiếp của người nông dân mà còn nhìn ra cái nguyên nhân sâu xa trong
nỗi khổ đau của họ. Đó chính là cách nhìn sáng suốt, đứng về chính nghĩa, tức là đứng về phía
người nông dân đã lên án những thế lực đày đọa họ, dù là gián ti ếp hay tr ực ti ếp. Đó không
phải là cách nhìn của người trên hướng xuống, không phải là cách nhìn với tình cảnh dửng
dưng mà nó sâu sắc, tha thiết. Nêu ở Chí Phèo, .Nam Cao vẫn bênh vực Chí Phèo, cái tên
“chửi cả làng Vũ Đại” ấy là vì hắn vẫn còn lòng lương thiện và khát khao yêu th ương, vì h ắn
bị bọn cường hào bất công, dâm dục đày đọa mới trở thành như vậy, thì ớ Lão H ạc, Nam Cao
nhìn vào phẩm chất tốt đẹp nhưng bất hạnh của họ mà bênh vực sâu sắc. Phải chăng xã h ội
thực dân phong kiến đã lần lượt cướp đi những niềm vui của họ, đẩy họ đến bước đường
cùng? Phải chăng chính cái xã hội ấy đã chôn bao nhiêu thanh niên trong r ừng thiêng n ước
độc, để bao người cha người mẹ chết đi trong khổ đau? ... Nam Cao đã nhìn th ấu ng ười nông
dân như vậy đấy. Không chỉ trực tiếp nhìn vào cuộc sống hàng ngày, mà còn bao quát chung
quanh họ. Nam Cao đứng về phía họ mà thương, mà lên án những kè đày đ ọa h ọ, mà v ạch b ộ
mặt xấu xa của chúng đề nhìn thấy phẩm chất cao đẹp của người nông dân, cho dù họ có thế
nào đi chăng nữa thì vần tôt đẹp hơn những kẻ “đè đầu cưỡi c ổ” h ọ. Truy ện ng ắn Lão H ạc
không chỉ nêu bật cách nhìn người nông dân của Nam Cao qua bức tranh nông thôn thu nhỏ về
cuôc đời đau khổ của lão Hạc mà còn có một ngôn ngữ nghệ thuật rất tinh tế. Ngôn ng ữ ấy
biêu hiện cả một thái độ trân trọng bênh vực người nông dân. Nam Cao dùng chữ “lão” mà
khòng dùng chừ “hắn”, “y” hay bất cứ cách gọi gi tương tự với lão Hạc. Nam Cao th ấy đ ược
vẻ gia nua, đau khổ của lão, một con người đáng kính. Trong su ốt tác phẩm, bằng nh ững t ừ
ngữ cô đọng, Nam Cao đã làm người đọc nhìn thấy một người nông dân bất hạnh mà cao quý.
Chính ngôn ngữ và kết cấu truyện, kết cấu bi kịch trong cái chết cuối cùng của lão H ạc càng
làm nổi bật cách nhìn của một nhà văn - một cách nhìn yêu mến, trân trọng nhất với người
nông dân.
Tuy nhiên, cũng phải đề cập đến một chút hạn chế trong cách nhìn người nông dân của Nam
Cao. Tuy rằng trong Lão Hạc không có cái nhìn hơi giễu cợt như một số tác phẩm khác nhưng
nó cùng chưa thật sự hoàn chỉnh. Cách nhìn của Nam Cao với người nông dân có phần quá bi
quan. Sao cuộc đời họ toàn là những cay đắng, tủi nhục, trông thấy mà “đau đ ớn lòng”? Sao
cuộc đời họ không có một chút gì ánh sáng của tương lai hi vọng, mặc dù cái tương lai ấy
không phải là còn quá xa? Hay nói cách khác, Nam Cao chưa nhìn thấy “ánh h ồng” trong cu ộc
đời của người nông dân như nhiều nhà cách mạch, lão Hạc sống kiếp đời đau khổ, không một
niềm vui dù là nhỏ nhất. Lão chết bi thương trong cái nhìn tuyệt vọng vào một khuôn mẫu
nhất định nhưng nếu như lão trong Lão Hạc có tia hi vọng của m ột con đ ường và ánh đ ồng
cát như trong Cố hương của Lỗ Tân thì cách nhìn của Nam Cao sẽ hoàn ch ỉnh biết mấy.
Nhưng dù sao, sự so sánh nào mà chẳng khập khiễng, Nam Cao sẽ mãi mãi là Nam Cao. Ông
sẽ mãi mãi ở trong lòng người đọc với tác phẩm Lão Hạc và cách nhìn người nông dân c ủa
ông.
Tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao có thế là tác phẩm thành công nhất của tác giả cũng nh ư
của cả dòng văn học. Cách nhìn của Nam Cao với số phận của lão Hạc, chính là cách nhìn với
cả tầng lớp nông dân vì lão Hạc mang tính điển hình sâu sắc. Cách nhìn đồng cảm, thương
yêu, bênh vực và sâu thẳm vào tận đáy lòng người nông dân của Nam Cao sẽ mãi mãi đ ể l ại
ấn tượng sâu sắc cho người đọc, cho dù tác giả đã đi xa và thân phận của người nông dân bây
giờ đây đã đổi mới hơn nhiều.