Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Tương tư (Nguyễn Bính)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:42:05


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính 

Nguyễn Bính là gương mặt khá tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Thơ Nguyễn Bính giàu âm điệu trữ tình dân gian yà cách diễn đạt ý nhị, duyên dáng, hình ảnh mộc mạc về con người và quê hương. Bài thơ Tương tư được sáng tác năm 1939, in trong tập Lỡ bước sang ngang (1940). Bài thơ thể hiện tâm trạng của một chàng trai làng quê với mối tình đơn phương nồng cháy mà kín đáo qua thể thơ lục bát quen thuộc.

   Tương tư (nhớ nhau) là quy luật của tình cảm, Chàng trai thổ lộ tâm tình rất tự nhiên:

    Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông

    Một người chín nhớ mười mong một người

   Câu thơ sử dụng hình ảnh Đoài, Đông, biện pháp ẩn dụ và thành ngữ chín nhớ mười mong quen thuộc trong ca dao, đã bộc lộ nỗi nhớ nhung da diết nhưng kín đáo tế nhị mang phong cách thơ ca dân gian. Đó là nỗi lòng thương thầm lặng của chàng trai chân quê. Chẳng cần bóng gió, chàng trai chân thành bộc bạch:

    Gió mưa là bệnh của trời,

    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

   Mượn quy luật tự nhiên để nói đến quy luật của tình yêu: khẳng định tình yêu nàng như lẽ tự nhiên của tạo hóa. Cách bày tỏ tình yêu thẳng thắn đã thể hiện cái tôi thành thật của Thơ mới.

   Nỗi lòng yêu thương nhung nhớ của chàng trai được bày tỏ vừa kín đáo bộc trực nên thơ Nguyễn Bính vừa hiện đại vừa mang phong cách dân ca.

   Tương tư với tất cả nỗi lòng tha thiết của chàng trai. Chàng trai liên tục đặt câu hỏi trong tâm tưởng:

   Trách móc bâng quơ: Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

   Giận hờn: Không sang là chẳng đường sang đã đành

   Trăn trở thao thức, mong mỏi: Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

   Ước mơ gặp gỡ: Bao giờ bến mới gặp đò

   Khát khao hạnh phúc: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?

   Những cung bậc của tình cảm và nỗi tương tư xuất phát từ tình yêu chân thành tha thiết của chàng trai.

   Điệp ngữ: Ngày qua ngày lại qua ngày diễn tả thời gian trôi đi nhanh chóng và vô nghĩa, cho thấy nỗi lòng trống vắng của tình yêu đơn phương. Tâm trạng mang nỗi nhớ triền miên day dứt, nỗi sầu muộn trong lòng đã dâng lên làm héo úa cảnh vật Lá xanh nhuộm đã thành cây là vàng. Không gian đong đầy thương nhớ đã làm hao mòn thế giới, làm cảnh vật tàn tạ:

    Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

    Đêm đêm vầng sáng hào gầy đêm đêm

            (Ca dao)

   Tình yêu đơn phương mãnh liệt mà lặng lẽ đầy e ngại đã nhân rộng khoảng cách không gian:

    Bảo rằng cách trở đò ngang

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

   Tình càng xa xôi chàng trai càng tha thiết mong được đồng cảm:

    Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

   Nhịp thơ gập ghềnh diễn tả nỗi lòng thổn thức, day dứt. Nỗi nhớ được phong kín không thể giãi bày. Hàng loạt hình ảnh ẩn dụ: bến - đó, hoa - bướm, cau - trầu., đã diễn tả niềm mong ước thầm kín về hạnh phúc lứa đôi của chàng trai.

   Nhờ sử dụng hình ảnh ẩn dụ quen thuộc của ca dao nên bài thơ mang đậm phong cách dân gian, diễn tả hồn quê, tình quê chân thành kín đáo của chàng trai. Và những hình ảnh đáo lại mở ra một không gian miền quê gần gũi thân thương, quyện chặt với mối tình chân quê của con người.

   Mở đầu là hình ảnh Đoài - Đông, kết thúc cũng là hình ảnh ấy. Cách kết cấu vòng tròn diễn tả tình yêu khép kín trong nỗi tương tư. Đó là tình yêu đơn phương.

   Nỗi nhớ mong, tương tư có nhiều cung bậc, sắc thái và nỗi khát khao hạnh phúc của chàng trai với mối tình đơn phương được diễn đạt khá tự nhiên, nhuần nhị qua hình thức mang âm hưởng ca dao. Bài thơ đã nói khá chân thực và tiêu biểu tình yêu của những trai làng: yêu mà không dám thổ lộ. Đó chính là nét dẹp tâm hồn thuần Việt.

   Bài thơ thể hiện rõ phong cách thơ Nguyễn Bính, trong khi các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây hiện đại thì thơ Nguyễn Bính quay lại tìm về với những hình thức, vần điệu nhuần nhị của ca dao. Do đó thơ Nguyễn Bính thấm được hồn quê đất nước.

Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

 Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau, hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ cũng rất quen thuộc — lục bát.

   Song, để bài thơ có thể sống dài lâu trong lòng bạn đọc không phải là chuyện dễ. Tương tư của Nguyễn Bính vừa có vẻ thân quen như một làn điệu dân ca khiến bao người thuộc lòng. Thậm chí trở thành một bài hát ru em, vừa mang tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc, trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của một chàng trai đối với một cô gái. Cô gái ấy vô tình, hay hữu ấy không biết nỗi lòng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của tình yêu., Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta thao thức và cả trách móc nữa, nhưng là sự trách móc của một người đang yêu nên cũng rất đáng yêu:

    Bảo rằng cách trở đò giang

    Không sang là chẳng đường sang đã đành

    Nhưng đây cách một đầu đình

    Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

    Nhà em có một giàn giầu

    Nhà anh có một hàng cau liên phòng

    Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

   Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, không phải là sự diễn xuôi, kể lại (vì có gì đáng để đâu) mà để thầy từng cung bậc tình cảm trong trái tim chàng trai đang tương tư.

   Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành công của nó ở chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi lòng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lòng rất người, một bộ phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:

    Ai bảo em là giai nhân

    Cho đời anh sầu khổ

    Ai bảo em ngồi bên cửa sổ

    Cho vướng víu nợ thi nhân.

            (Lưu Trọng Lư - Một mùa đông

   hoặc:

    Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng

    Mà sầu trong dạ đã mang mang

    Tình yêu như bóng trắng hiu quạnh

    Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.

            (Lưu Trọng Lư - Một chút tình)

   Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy. Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở bài thơ này là bướm, hoa, thôn Đoài, thôn Đông, đình làng, bến đò, hàng cau, giàn trần..) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn. Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị (Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gọi đò?/ Nhà em có một giàn giầu...) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ Nguyễn Bính, đó chính là chân quê, hồn quê thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.

Giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Bính

Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.

   Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế, Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.

   Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ — 1958), Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo - 1961), Người lái dò sông Vị (chèo - 1962)...

Nguồn: vietjack