Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Nhớ đồng (Tố Hữu)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:40:26


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu 

Tố Hữu hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế, bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế 1939). Vào tù, Tố Hữu sáng tác nhiều bài thơ diễn tả tâm tình của một nhà cách mạng trẻ tuổi, sau này được tập hợp trong phần "Xiềng xích" của tập thơ "Từ ấy". Bài thơ "Nhớ đồng", là những dòng tâm tư nồng nhiệt, tha thiết, trong trẻo của nhà thơ trẻ hướng về ruộng đồng, quê hương, về những con người thân yêu, về những kỉ niệm của một thời hoạt động cách mạng sôi nổi.

   Bài thơ có lời đề "tặng Vịnh" (Nguyễn Chí Thanh) một người bạn đồng hương, cùng hoạt động cách mạng và cùng bị tù trong nhà giam Thừa Phủ. Có lẽ bài thơ được gợi hứng trực tiếp từ giọng hò của Vịnh trong những trưa tù cô quạnh:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!".

   Giọng hò của người bạn tù đã gợi lên hình ảnh đồng quê, thức dậy trong lòng nhà thơ tình yêu quê hương, xóm làng:

    "Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

    Đâu ruồng tre mái thỏ yên vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?"

   Điệp từ "đâu" tạo ra nhạc điệu tha thiết, diễn tá niềm thương nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ trẻ. Các giác quan của thi sĩ được thức dậy với đồng quê. Hương vị đậm đà của gió, của đất, và tài hoa của Tố Hữu là chỉ một từ (cồn) gợi lên hình ảnh của xứ Huế "Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi". Tác giả cũng tinh tế trong cảm nhận, nghe được hơi thở của "ruồng tre mát", nhìn thấy từng ô mạ xanh mơn mởn, thấm được vị của "những nương khoai ngọt sắn bùi".

   Trong nỗi nhớ đồng quê của nhà thơ chẳng những có tình cảm nồng nhiệt mà còn có tư tưởng, đây là nét mới so với các nhà thơ lãng mạn đương thời:

    "Đâu những đường con bước vạn đời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trồi cứ trôi..."

   Những "con đường" thân thuộc mà cũng chật chội quá, những xóm nhà tranh thương quá, sao mà nghèo! Một đồng quê tù đọng, "âm u", "không đổi"! Nhìn ra sự bất biến của đồng quê, mà cũng là của xã hội đương thời, đã chớm nở tư tưởng muốn thay đổi, cách mạng!

   Sự "cựa quậy" về tư tưởng ấy dã làm xê động cả điệp khúc của bài thơ. Từ:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò".

    "Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!".

   Nhưng nhà thơ không tắt niềm tin tưởng vào cuộc sống. Nhà thơ gửi gắm niềm hi vọng vào những con người "lưng cong xuống luống cày", những bàn tay gieo hạt"tung trời những sớm mai":

    "Đâu những lưng cong xuống luống cày

    Mà bùn hi vọng nức hương ngây ,

    Và đâu hết những bàn tay ấy

    Vãi giống tung trời những sớm mai?".

   Những hình ảnh khoa trương gợi nhớ bài thơ "Mùa gieo hạt, buổi chiều" của Huy-gô:

    "... Bóng đêm đầm mặt ruộng.

    Tơi tả áo quần dây

    Cụ già vung nắm giống

    Mùa sau xuống luống cày

    Dáng người cao đen sẫm

    Vời vợi trên đồng sâu

    Hẳn lòng người tin lắm

    Tháng ngày kia đến đâu..."

   Hay là:

    "Trong màn đêm lan rộng

    Nghe lẫn tiếng rì rào

    Cánh tay người gieo giống

    Như vươn tới trời sao..."

            (Tố Hữu dịch)

   Nổi bật lên trong nỗi "Nhớ đồng" là hình ảnh của những con người thân quen, ruột rà, mới gần gũi đây mà đã xa xôi, cách biệt:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

    Đâu bóng hình quen đâu cả rồi

    Sao mà cách biệt quá xa xôi".

   Những con người đồng quê mà nhà thơ đã thân quen "tự thuở xưa", và đã hiểu được bản chất, tâm tư, tình cảm cuộc sống trong những con người "dãi gió dầm mưa" đó:

    "Những hồn chất phác hiền như đất

    Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!".

   Và sâu thầm trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ mẹ già... Nỗi nhớ da diết dâng trào lên trong âm điệu trùng điệp đến nao lòng:

    "Chao ôi, thương nhớ, chao thương nhớ

    Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!".

   Rồi nhà thơ nhớ lại chính mình. Người thanh niên trong tù ngục, kiếm tìm lại những hình ảnh của người thanh niên "ngày xưa":

    "Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

    Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".

   Kỉ niệm không bao giờ phai nhoà trong tâm trí nhà cách mạng trẻ tuổi là những giây phút bắt gặp lí tưởng:

    "Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

    Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

    Say đồng hương nắng vui ca hát

    Trên chín tầng cao bát ngát trời...".

   Tác giả hồi tưởng lại một cách hết sức xúc động bằng hình ảnh so sánh thích hợp (nhẹ nhàng như con chim cà lơi), bằng lối khoa trương hồn nhiên (trên chín tầng cao bát ngát trời). Với cánh chim tự do, say sưa với hương đồng gió nội, "vui ca hát" trên không gian của đồng quê cao rộng, nhà thơ vừa hồi tưởng lại kỉ niệm đẹp đẽ của giây phút bắt gặp chân lí cách mạng, vừa diễn tả nỗi thèm khát của cánh chim tự do, nay bị nhốt trong lồng:

    "Tôi thu tất cả trong thầm lặng

    Như cánh chim buồn nhớ gió mây".

   Bài thơ "Nhớ đồng" đã biểu hiện một cách chân thành và sinh động tâm tư của một nhà cách mạng trẻ tuổi bị lâm vào cảnh tù ngục. Nỗi khao khát cuộc sống tự do, tình cảm thương nhớ đồng quê, thương nhớ những người thân yêu... được biểu hiện bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, trong trẻo.

   Chỉ tiếc là bài thơ nhiều lời; thơ là hình thức kết tinh nên càng cô đúc, kiệm lời thì thơ hay mới càng hay.

Bình giảng bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu

 Từ ấy được xem như những trái ngọt đầu tiên mà Tố Hữu đã gặt hái được đế dâng cho đời. Đến với tập thơ chúng ta không chỉ bắt gặp một thanh niên yêu cách mạng, say mê lí tưởng mà còn thấy được hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng đang sông và chiến đâu. Vì vậy, Từ ấy không chí có những bài thơ tràn đầy cảm xúc say mê lí tưởng, mà còn có những bài ghi lại những chặng đường chiến dấu bị tù đày gian khổ, trong số đó phải nói đến bài thơ Nhớ đồng.

   Bài thơ được Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, bốn tháng sau khi nhà thơ bị mật thám bắt và cầm tù. Toàn bài thơ là nỗi nhớ tha thiết.

   Mở đầu bài thơ là lôi nói so sánh được nhà thơ nêu ra như đê xác định tâm thế cô đơn của chính mình:

    Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

   Nhà thơ như tự hỏi chính lòng mình để rồi tự khẳng định tâm trạng của chính mình. Đày chính là tâm trạng cô đơn, quạnh vánh và cồn cào nhớ thương. Câu thơ như một tiếng thở dài buồn đến da diết. Chúng ta lại chợt nhớ đến hình ảnh của người chiến sĩ cộng sản lần đầu tiên bị ném vào tù trong bài Tâm tư trong tù:

   Thế nhưng đến đây ta không chỉ cảm nhận thây sự cô đơn mà còn cảm thây cái buồn tê tái, cái hiu quạnh đến lạnh lẽo, và sự thương nhớ như đang vò xé gan ruột.

   Sau hai câu thơ đầu mở ra như lời bộc bạch tâm sự, nhà thơ lần lượt cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhung trong tâm hồn người cách mạng:

    Đâu gió còn thơm đất nhả mùi

    Đâu luồng tre mát thưở yên vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi

    Đâu những đường con bước vạn dời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im lơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…

   Không gian của bài thơ như được trải rộng ra. Đó chính là không gian của quê hương yêu dấu nơi có mùi đất quá quen thuộc, nơi có bóng tre mát rượi, những ô mạ xanh mơn mởn, nơi trải dài nương khoai, nương sắn và cả những mái tranh thấp bình dị. Không gian được trải rộng ra phải chăng cũng ciiính là sự trải rộng cửa nỗi nhớ trong lòng nhà thơ. Đáng lưu ý là trước mỗi cảnh vật quen thuộc như vậy là từ đâu dùng đế’ hỏi. Tuy nhiên ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần là sự tìm kiếm, là hỏi vị trí mà chính là đang tự hỏi lòng mình, đang lục lại trong trí nhớ những gì đả xa, đã mất. Đâu gợi lên trong chúng ta sự mất mát trống vắng. Từ Đâu được Tố Hữu lặp lại năm lần liên tiếp làm cho nỗi nhớ như càng được nhản lên dồn dập, làm cho sự trống vắng mất mát hụt hẫng trong lòng nhà thơ nhân lên đến xót xa. Vì vậy có thể nói đâu đã trở thành tiếng gợi nhớ thương đến cồn cào da diết. .Và nỗi thương nhớ hiu quạnh ấy như được trải dài ra bởi:

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…

   Có thể nói, hai khổ thơ trên đã khái quát một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương đồng ruộng. Nồi nhớ ấy dâng lên và thốt ra nghẹn ngào thấm thía:

    Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

   Vẫn là cách nói so sánh diễn tả sự vắng vẻ cô đơn. Ôi và nhớ ơi xuất hiện trong cùng một câu thơ làm cho nỗi nhớ quê càng trở nên da diết hơn bao giờ hết.

   Nhớ đến ruộng dồng quê hương nhà thơ đồng thời hướng nỗi nhớ của mình đến con người. Đây là những con người lao động gần gũi đang lưng cong xuống luống cày, vãi giống tung trời. Nhưng tất cả cũng chỉ là trong tiềm thức, chỉ còn là nỗi nhớ. Và giờ này cảnh vật và con người cũng hiện lên đầy buồn nhớ như chính tâm trạng của nhà thơ:

    Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

    Lúc mềm xao xác ủ ven sông

    Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước

    Một giọng hò đưa hớ não nùng.

   Tất cả hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhà thơ càng làm cho nỗi nhớ về cuộc sống thêm da diết. Tất cả đã xa rồi, đối diện với nhà thơ lúc này chỉ là kỉ niệm, những kỉ niệm đang cào xé chĩ có thế mơ tới, chi không thể với tới được. Và một lần nữa nhà thơ đã phải thốt lên:

    Gì đâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.

   Câu thơ được điệp lại làm cho nỗi nhớ thương, sự cô đơn trong lòng nhà thơ càng tăng lên. Và tất cả kỉ niệm như vụt biến, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng và nhận ra:

    Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

    Sao mà cách biệt, quá xa xôi

    Chao ôi thương nhở, chao thương nhở

    Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!

   Có lẽ đấy là tiếng gọi của sự nhớ thương, là tiếng nói xót xa cho hoàn cảnh bị giam cầm. Người chiến sĩ cách mạng chợt nhận ra thực tại sao mà cách biệt quá xa xôi. Cũng bởi lẽ thế mà nỗi nhớ lại cồn cào thêm. Chi trong một câu tliơ thôi mà thương nhớ được điệp tới hai lần. Từ chao càng làm cho nỗi nhớ ấv trở nên da diết xót xa hơn.

   Qua nỗi nhớ quê hương, con người chúng ta không chí thấy hiện lên hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng đang cô đơn trong ngục tù mà còn cho ta thấy tấm lòng yèu quê hương, sự gắn bó của người chiến sĩ với quần chúng nhân dân lao động, luôn luôn hướng tới cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là những nét rất cơ bản và quen thuộc về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản bị tù đày trong thơ Tố Hừu.

   Sau những khoảnh khắc thương nhớ, nhà thơ chợt nhìn và nhớ về chính bản thân mình. Các khổ cuối của bài thơ sẽ cho ta thấy rõ sự nhận thức ấy.

   Trước hết là nhớ về bản thân mình:

    Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

    Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

    Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

    Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.

   Vẫn là sự lục tìm trong trí nhớ, song đã có sự nhận thức rất rõ ràng về những ngày xưa. Nhà thơ nhớ lại những ngày bế tắc, những ngày băn khoăn kiếm tìm lẽ sông. Đấy chính là những ngày nhà thơ chưa bắt gặp lí tưởng cộng sản. Những từ ngữ như: vấn vơ, băn khoăn, quanh quẩn đã diễn tả một cách chính xác sự bế tắc trong con người nhà thơ lúc này. Ba tiếng tôi nhớ tồi. vang lên như một sự nhận thức thấm thìa, buồn cho cuộc sống theo mãi vòng quanh quẩn, muốn thoát nhưng chẳng thể bước nổi.

   Khổ thơ tiếp theo chuyển sang một giọng điệu hoàn toàn khác đầy say sưa hưng phấn:

    Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

    Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

    Say đồng hương nấng ưui ca hát

    Trên chín tầng cao bát ngát trời

   Nhà thơ nhớ lại ngày tôi thấy tôi nghĩa là ngày tự soi vào lòng mình, tự thấy mình đã trưởng thành, thấy lẽ vêu đời. Lúc này là lúc nhà thơ cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được tác giả ví với hình ảnh của con chim cà lơi nhẹ nhàng tung bay trên bầu trời. Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Niềm vui, niềm hạnh phúc ấy được Tô’ Hữu diẻn tả một cách tinh tế bằng các từ say đồng, vui ca hát, bát ngát trời. Đặc biệt với câu thơ nhẹ nhàng như con chim cà lơi, Tô’ Hữu dùng tới sáu thanh bàng, vì vậy đã diễn tả được cái phơi phới trong tâm hồn nhà thơ — một tâm hồn say mê lí tưởng.

   Trở về với thực tại, nhà thơ lại đầy ắp tâm trạng:

    Cho tới chừ đây, tới chừ đây

    Tôi mơ qua cửa khám bao ngày.

    Tôi thu tất cả trong thầm lặng

    Như cánh chim buồn nhớ gió mây.

   Câu thơ mở đầu khổ thơ trên như một lời than. Đây là sự tiếc nuối quá khứ đã qua, là sự xót xa trong nỗi đau thực tại. Tới giờ đây được lặp lại hai lần làm cho sự xót xa được nhấn mạnh thêm. Và lúc này tất cả tâm hồn người chiến sĩ hướng ra cuộc sông bên ngoài: tôi mơ qua cửa khám bao ngày. Tuy nhiên đọng lại cả khổ thơ là nồi buồn bị cùm trói trong tù túng, siết chật trong thầm lặng. Và nếu trước đây, hình ảnh cánh chim được so sánh để diễn tả sự ngây ngất say mê lí tưởng thì giờ đây cánh chim lại gắn với nỗi buồn. Qua đó ta thấy được khát vọng tự do của người chiến sĩ cách mạng.

   Kết thúc bài thơ là điệp khúc được vang lên lần thứ hai trong bài thơ:

    Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!

   Điệp khúc này tạo cho bài thơ có cấu trúc đặc biệt: mở ra bàng nỗi cô đơn, nỗi nhớ và kết thúc cũng vậy. Vì vậy, có thê nói nhớ là nét chủ đạo bao trùm 44 câu của bài thơ.

   Nhớ đồng – cái tên bài thơ đã mở ra đầy nhớ thương. Nhưng bài thơ không chỉ có tâm trạng nhớ què, nhớ những con người say mê lí tưởng, khát khao tự do. Đấy cũng là nét đẹp trong phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng trong thơ Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam nói chung.

Bình giảng một đoạn thơ trong bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

    Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

    Đâu ruồng tre mát thở yến vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

    Đâu những đường còn bước vạn đời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi..."

Bài văn mẫu

   Phần "Xiềng xích" trong tập thơ "Từ ấy" gồm 29 bài thơ. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1939, Tố Hữu đã viết một chùm thơ 9 bài. "Nhớ đồng" là bài số 7 được viết vào tháng 7 năm 1939.

   Nhan đề bài thơ là "Nhớ đồng " và đó cũng là cảm xúc chủ đạo của Tố Hữu trong chốn ngục tù. Bài thơ gồm có 44 câu thơ nói lên bốn nỗi nhớ: 10 câu đầu là nỗi nhớ đồng quê; 10 câu tiếp theo nói lên nỗi nhớ những người dân cày lam lũ; 10 câu nối tiếp diễn tả lòng thương nhớ mẹ già và "những hồn thân tự thuở xưa"; 14 câu còn lại là tấm trạng "tôi nhớ tôi", và thể hiện lòng khao khát tự do.

   Bài thơ có cấu trúc "phức điệu" đoạn 1 và 3 xuất hiện điệp khúc:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!"

   Điệp khúc ấy được biến tấu thành:

    "Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,

    Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!"

   đặt vào đầu đoạn 2 và cuối đoạn 4.

   Cấu trúc phức điệu ấy rất độc đáo nhằm biểu hiện những vòng xoáy da diết về nỗi nhớ đồng trong lòng người chiến sĩ trẻ đang bị đầy đoạ ở chốn ngục tù. Đấy là đoạn một bài thơ "Nhớ đồng":

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    ...

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi".

   Từ ngày bị mật thám bắt, bị tù đầy giữa "lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ", nỗi nhớ đồng cứ diễn ra triền miên, nhất là những buổi trưa trong nhà tù. Nỗi nhớ ấy day dứt và thiết tha vô cùng, không thể nào nguôi. Tự đáy lòng thốt lên so sánh: "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ" Thế giới nhà tù, trong và ngoài song sắt đều "hiu quạnh", rất vắng vẻ và buồn. "Hiu quạnh" đâu chỉ là ngoại cảnh nhà tù mà còn là tâm cảnh của "thân tù". Trong khoảnh khắc "hiu quạnh" ấy, những buổi trưa, nhà thơ nhớ "một tiếng hò" nơi làng quê, thổn thức cả nỗi lòng:

    "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

    Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!".

   Nhớ "một tiếng hò", nhớ một khúc dân ca, nhớ một giọng hò mái nhì, mái đẩy, một giọng hò giã gạo của quê hương mà nhà thơ từng ôm ấp trong lòng:

    "Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước,

    Một giọng hò đưa hố não nùng".

   "Một tiếng hò" là hồn quê. Nhớ "một giọng hò" là nhớ đồng, là nhớ quê hương "nghĩa nặng tình sâu" đã bao ngày li biệt.

   Bốn câu thơ tiếp theo, chữ "đâu" được điệp lại, các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện, nỗi "nhớ đồng" day dứt khôn nguôi:

    "Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi,

    Đâu ruồng tre mát thở yên vui

    Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

    Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?".

   Vần thơ làm hiện lên một không gian nghệ thuật - bức tranh đồng quê; diễn tả một tâm trạng nghệ thuật ấy là nỗi nhớ đồng da diết. Nhớ hương vị quê hương, nhớ "gió cồn thơm đất nhả mùi", nhớ luống cày, nhớ hương lúa; nhớ luỹ tre, ruồng tre bóng xanh trùm mát rượi "thở yên vui". Chữ "thở" trong câu thơ "Đâu ruồng tre mát thở yên vui" được sử dụng tài tình, gợi tả âm thanh rì rào, lao xao của lá tre, khúc nhạc yên vui, êm đềm của làng quê ta bao đời nay. Một sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Nhớ đồng là nhớ "từng ô mạ xanh mơn mởn" - tươi đẹp và xanh non. Nhớ đồng là nhớ vị "bùi" của sắn, vị "ngọt" của khoai. Các tính từ - bổ ngữ: "thơm", "mát", "yên vui", "xanh mơn mởn"ngọt", "bùi"... đã tô đậm vẻ đẹp của đồng quê. Bức tranh quê trong hoài niệm hiện lên thân thuộc, bình dị, xinh đẹp và đáng yêu biết bao! Bị tù đày mà xa cách quê hương. Cảnh sắc quê hương giờ đây chỉ hiện lên trong hoài niệm, trong nỗi nhớ vơi đầy. Chữ "đâu" bốn lần xuất hiện: "Đâu gió cồn thơm...", "Đâu ruồng tre mát..", "Đâu từng ô mạ...", "Đâu những nương khoai..." diễn tả một cách xúc động, đầy ám ảnh nỗi nhớ đồng gắn liền với nỗi đau buồn, cô đơn của nhà thơ đang bị đày đoạ trong chốn ngục tù.

   Hơn một nghìn ngày bị tù đày (1939 - 1942)., Tố Hữu có biết bao nỗi nhớ day dứt và triền miên trong lòng. Chợt nghe một tiếng chim tu tú gọi bầy mà nhớ "Vườn râm dậy tiếng ve ngân - Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào" (Khi con tu hú). Một màu xanh của đồng lúa, một tiếng hát "bơ vơ", một ánh nắng chiều bên nương gợi lên bao nỗi nhớ quê, nhớ nhà vô cùng da diết:

    "Đồng xanh gợn nhớ quê hương

    Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiều".

            (Tiếng hát đi đày)

   "Nhớ đồng" là nhớ mãi nhớ hoài "Những hồn chất phác hiền như đất - Khoai sắn tình quê rất thiệt thà". "Nhớ đồng" là nhớ mẹ già thương yêu:

    "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

    Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!"

   Tiếng thơ cất lên nghe thật bồn chồn, tha thiết. Nhớ đồng, nhớ quê, nhớ mẹ già... là những nét rất đẹp trong hồn thơ Tố Hữu.

   Đoạn thơ tiếp theo nói lên nỗi nhớ những cảnh đời lầm than, tù đọng sau luỹ tre xanh:

    "Đâu những đường con bước vạn đời

    Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

    Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi..."

   Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật về nỗi "nhớ đồng" được mở rộng và khơi sâu thêm "những trưa thương nhớ...", "những trưa hiu quạnh..". Tiếng thơ cất lên tự hỏi: "Đâu những đường con bước vạn đời?". Xa cách đã bao ngày hình bóng quê hương. Còn đâu nữa, ờ đâu rồi những con đường quê gập ghềnh xuôi ngược của bao kiếp người lam lũ, của mẹ ta, chị ta "Đòn gánh tre chín dạn hai vai" (Nguyễn Du),...? Còn đâu nữa, ở đâu rồi hình ảnh bình dị, thân thuộc đáng yêu: "Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi". Một câu thơ có hình ảnh sáng tạo, gợi cảm. Sáng tạo và gợi cảm ở nghệ thuật dùng từ "thấp", ờ hình ảnh nhân hoá "...ngủ im hơi". Đó là hình ảnh làng quê Việt Nam tăm tối, nghèo nàn, tiêu điều, xác xơ... dưới thời Pháp thuộc. Ở đâu cũng thế, khắp Bắc, Trung, Nam đều thế: "Năm gian nhà cỏ thấp le te...", "Phần thuế quan Tây, phần trả nợ..." (Nguyễn Khuyến).

   Với Tố Hữu thì nỗi nhớ luôn luôn gắn liền với tình thương, thương quê hương đất nước, thương đồng chí đồng bào, thương nhân dân lao động nghèo khổ đang rên xiết dưới ách thống trị của ngoại bang, đang bị "Đoạ đày trong những hố thẳm không cùng" (Tâm tư trong tù). Cuộc sống của nhân dân ta thuở ấy cứ lặng lẽ, âm thầm trôi đi trong những tháng ngày đen tối "âm u". Đó là cái "Ao đời" tù đong như thi sĩ Xuân Diệu đã nói tới trong "Toả nhị kiều". Cuộc đời "không đổi", thân phận "không dổi", nhưng mà "trôi cứ trôi". Ba chữ "trôi cứ trối" thấm thía bao nỗi buồn. Câu thơ khồng chỉ nói lên một nỗi buồn "nhớ đồng" thấm thía và còn mang ý nghĩa lay gọi, thức tỉnh về nô lệ và tự do:

    "Giữa dòng ngày tháng âm u đó

    Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi".

   Điệp ngữ "trôi cứ trôi" liên kết với hình ảnh ẩn dụ "dòng ngày tháng âm u" tạo nên tính hệ thống ngôn ngữ văn chương giàu "Sắc thái biểu cảm nói về cái vô nghĩa, cái đáng chán của những thân phận, những kiếp người bị tước đoạt mất tự do!

   Tố Hữu đã có lần thổ lộ: "Thơ là một điệu hồn đi tìm nhưng hồn đồng điệu", cho nên "Thơ là chuyện tri âm tri kỉ" ở đời: Đọc thơ Tố Hữu,"đặc biệt đọc những bài như "Tâm tư trong tù", "Nhớ đồng", "Tiếng hát đi đầy",…chúng ta tìm thấy và hoà nhập với "điệu hồn" thi sĩ.

   Đoạn thơ trên đây hội tụ bao nét đẹp của hồn thơ Tố Hữu về nỗi nhớ đồng, về tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm Hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày. Những đường nét, màu sắc, âm thanh được nhà thơ sử dụng đã làm hiện lên thấp thoáng quê hương với bao nỗi nhớ, tình thương, nỗi buồn day dứt, triền miên khôn nguôi. Giọng thơ bổi hồi xao xuyến, thấm thía một nỗi buồn thương. Chất trữ tình và cảm xúc về cái đẹp, về nỗi buồn thương nhớ đồng quê đã tạo nên một cảm hứng đồng hành với tư tưởng cách mạng. Đó là khao khát tự do:

    "...Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

    Tôi thu tất ca trọng thầm lặng

    Như cánh chim buồn nhớ gió mây"

            (Nhớ đồng)

Nguồn: vietjack