Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Viết bài tập làm văn số 3

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 10:28:55


Mục lục
* * * * *

Kể về một lần em trót xem nhật ký của bạn

Trong ngăn ký ức ngày hôm qua của mình, tôi có thể quên nhiều thứ nhưng không thể quên lần trót xem trộm nhật ký của Mai.

   Mai là cô bạn gái thân thiết nhất của tôi. Chúng tôi chơi với nhau từ hồi còn bé xíu nên tôi hiểu Mai rất rõ. Mai xinh xắn và dễ mến: mái tóc dài đen mượt, cái miệng chúm chím thật đáng yêu.Mai thông minh, học giỏi và rất tình cảm với bạn bè.

   Một lần tôi đến nhà Mai mượn sách. Mai đang mải làm bánh nên để tôi tự tìm. Cả một tủ sách khiến tôi hoa mắt. Tôi phát hiện ra một khe hở nhỏ cạnh kệ sách, tôi tò mò lôi từ đó ra một quyển sổ nhỏ và mở ra xem. Không! Tôi vội vàng gập lại và định để vào chỗ cũ. Nhưng tôi lại ngập ngừng, tôi muốn biết thêm về Mai, muốn biết Mai ghi nhật kí như thế nào? Tôi không kìm được tay mình tiếp tục mở cuốn sổ và cũng không kìm được mắt mình đọc nó. Tôi đã cố gắng nhưng mắt tôi vẫn dán vào. "Trời ơi! lẽ nào cuộc sống của Mai là như vậy?" Bỗng tôi giật bắn mình, Mai xuất hiện ngay trước mặt. Tay tôi run bắn, cuốn nhật kí rơi bộp xuống đất, tôi đứng trân trân, bất động, không nói được lời nào. Tôi chỉ nhớ ánh mắt rưng rưng, đôi môi run rẩy đầy tức giận của Mai. Tôi vụt chạy đi, lòng nặng trĩu...

   Đó là lần đầu tiên tôi thấy Mai giận dữ như vậy. Tôi chạy, chạy như trốn ánh mắt ấy, tôi muốn khóc quá. Tôi rất sợ, sợ sự giận dữ Mai ném cho tôi, sợ cả chính việc mình vừa làm. Về đến nhà tôi đóng sập cửa phòng lại, thở hổn hển, bần thần ngồi xuống ghế, tôi tự trách mình tại sao lại làm như vậy? Tại sao tôi không chiến thắng được sự tò mò của chính mình? Tại sao? Tôi buồn bực quăng cả chồng sách xuống đất. Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt không yên.

   Đêm đó tôi trằn trọc mãi. Tôi ước gì chuyện đó chưa bao giờ xảy ra và ngày mai chúng tôi lại cùng nhau đến lớp. Tôi suy nghĩ miên man, nhớ lại những trang nhật ký đầy nước mắt của bạn. Làm sao tôi có thể tưởng tượng được rằng gia đình Mai không hề hạnh phúc, suốt ngày Mai phải nghe những trận cãi vã của bố mẹ. Tôi không tin vào những gì mình đã đọc. Càng nghĩ, tôi càng thương Mai. Tôi tưởng tượng ra hình bóng Mai cô đơn và buồn bã trong căn nhà lớn. Vậy mà tôi đã tưởng mình hiểu về Mai rõ lắm. Tôi muốn chia sẻ cùng Mai, muốn an ủi và làm hoà với bạn. Nhưng tôi lo Mai vẫn trách móc, vẫn giận tôi và bạn sẽ chẳng bao giờ nói với tôi một lời nào nữa bởi tôi đã cố tình xen vào bí mật đau buồn mà Mai hằng cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình. Cứ thế, suốt một đêm trường tôi không sao thoát khỏi sự ăn năn, day dứt...

   Sáng hôm sau, tôi đến lớp một mình. Tôi tự nhủ lòng sẽ đến xin lỗi Mai nhưng tôi vẫn vô cùng lo lắng. Mặc dù vậy, tôi đã không thực hiện được ý định của mình vì hôm sau và những ngày sau đó Mai không đến lớp. Vì hoàn cảnh riêng của gia đình, Mai đã chuyển về quê để học.

   Mong rằng, sẽ có lúc tôi gặp lại Mai để xin lỗi bạn, và tôi cũng cầu mong những nỗi buồn của Mai sẽ vợi đi theo năm tháng. Tôi tin tưởng một tương lai rộng mở, sáng tươi sẽ đến với người bạn của tôi. Và tôi nữa, tôi tự hứa với mình sẽ chẳng bao giờ lặp lại sai lầm dại dột thuở ấu thơ.

Kể lại cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính 

Để kỉ niệm ngày 27.7 ngày thương binh liệt sĩ, biết ơn những người anh hùng dân tộc đã hi sinh cả cuộc đời vì nước, vì dân, vì hòa bình độc lập, trong xã tôi long trọng tổ chức buổi họp mặt liên hoan dành cho các cựu chiến binh, giúp cho những người đồng đội được gặp mặt nhau sau lửa đạn chiến tranh. Tôi vui và vinh dự lắm vì tôi được mời tham gia văn nghệ, góp một vài tiết mục nhỏ để buổi lễ được thành công tốt đẹp. Và cũng tại nơi đây, có biết bao người lính cách mạng bước ra từ lửa đạn chiến tranh đã tụ họp về đây, cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của ngày xưa, cái ngày mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Thật may mắn biết bao khi tôi được tận mắt thấy, tận tai nghe những câu chuyện của những người lính già lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm nào. Họ chính là những người lính anh hùng, can đảm, tếu táo, tinh nghịch trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật từ trên trang sách bước ra cuộc đời thực, kể về câu chuyện của mình năm xưa. Và người được mời lên sân khấu, để trò chuyện với khán giả với các thanh niên nhi đồng bên dưới là người lính lái xe Phạm Quốc Huy, chính là người bạn cùng đơn vị, tổ công tác vận tải với nhà thơ Phạm Tiến Duật.

   Bác Huy khuôn mặt đầy phấn khích, tuổi độ 70, râu tóc bạc phơ, nhưng ngoại hình toát lên vẻ cương nghị, mạnh mẽ đang khoác trên mình bộ quân phục màu xanh với đầy đủ các loại huân huy chương lấp lánh sao vàng. Đôi mắt nhìn xa xăm, rực lửa như đang hồi tưởng lại những kí ức vàng son của một thời oanh tạc đầy gian nan trong thời kì kháng Mĩ, hòa cùng với giọng nói trầm ấm, ngân vang, toát lên nghị lực đầy dũng khí, kiên cường của người lính bước ra từ lửa đạn chiến tranh:

   - Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời chào tới Ban biên tập chương trình, tới các vị khách mời cùng tất cả các anh em đồng chí và các cháu thanh niên, thiếu niên nhi đồng. Cám ơn tất cả mọi người đã tổ chức buổi lễ mít tinh này để anh em đồng đội chúng tôi được gặp nhau. Tôi rất vinh dự được mời làm người đại diện, thay mặt cho anh em đồng đội chia sẻ với mọi người về những năm tháng chiến đấu hào hùng trong kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Đây đều là những câu chuyện, những lời nói chân thành, xuất phát từ sự trải nghiệm có thật nên vô cùng chân thực. Hi vọng qua lời chia sẻ này của tôi, thế hệ trẻ sẽ tiếp bước cha anh, giữ vừng nền hào bình của tổ quốc thân yêu, phát huy truyền thống yêu nước dân tộc, biết ơn người người đã có công với đất nước.

   - Vâng, thưa bác, câu hỏi đầu tiên mà cháu muốn hỏi Bác là: Bác có phải là người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, một trong các người lính được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" không ạ?

   - Đúng rồi cháu, bác chính là người lính cùng đơn vị công tác chiến đấu với ông Duật, ông Duật viết rất nhiều thơ về người lính và các cô gái thanh niên xung phong. Mà cứ bài nào ông Duật cho ra đời là anh em chúng đều truyền tay nhau mà đọc. Trong đó anh em chúng tôi thích nhất "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" bởi tác phẩm không hề tô vẽ hiện thực mà hoàn toàn đều là sự thật cuộc sống, được đưa vào trong thơ toát lên sự gian khổ, vất vả, hiểm nguy và cả tính cách lạc quan, dũng cảm huy hoàng của chúng tôi nữa.

   - Dạ, chúng cháu là những thế hệ trẻ, dù không trực tiếp phải chiến đấu nhưng phần nào cũng hiểu được những điều đó qua sách vở, qua các tư liệu để lại. Tuy nhiên, cũng có nhiều điều sách vở không thể ghi hết được, vì thế cháu rất nóng lòng muốn bác chia sẻ chi tiết hơn những năm tháng hồi chiến đấu của bác với các đồng đội của mình ạ!. Như cháu được biết, tuyến lửa Trường Sơn khi ấy là con đường huyết mạch của quân ta, bác có thể nói thêm cho chúng cháu biết về sự hoạt động của quân ta trên tuyến đường được không ạ?

   - Như mọi người đã biết, sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện hòa bình thống nhất. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói: "đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lí đó không bao giờ thay đổi. Và dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì cũng phải quyết tâm giành cho được độc lập". Từ tâm nguyện và sự quyết tâm ấy mà miền Bắc từ 1954 đến 1975 đã phải song song làm hai nhiệm vụ: một là xây dựng xã hội chủ nghĩa, hai là chi viện, giúp đỡ miền Nam với khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", từ lương thực, binh lực cho đến vũ khí, đạn dược.... tất cả "vì miền Nam ruột thịt". Và khi đó, mọi thứ được quân dân miền Bắc vận chuyển dọc theo tuyến quốc lộ 1A – con đường huyết mạch nối từ Bắc vô Nam. Nhưng con đường này quá quen thuộc nên nhanh chóng bị Mĩ phát hiện và chúng ném bom phá hủy chặn đứng sự tiếp tế, nhằm ngăn cách liên lạc giữa hai miền. Vì thế, quân dân ta đã phải tìm ra một con đường đi mới, đó chính là tuyến đường đi qua phía Tây Thừa Thiên. Chỗ đó là dãy Trường Sơn - ranh giới ngăn cách biên giới Việt Nam – Campuchia và chúng ta đã đi theo con đường mòn của đồi núi ấy để tiếp tục chi viện cho miền Nam, tạo thành con đường huyết mạch chạy khắp phía tây của đất nước, nối giữa hai miền. Cho nên, hằng đêm có hàng nghìn, hàng vạn những chuyến xe, cả xe vận tải lẫn xe ba gác, xe đạp... trở đầy lương thảo, vũ khí quân dụng thay nhau xung vào chiến trường miền Nam. Ban đầu thì Mĩ không phát hiện được ra điều này do không nắm vững được địa hình đồi núi của đất nước ta, nhưng không bao lâu, dưới sự tình báo gián điệp nên Mĩ đã phát hiện và chúng bắt đầu cho dải bom từ miền Nam ra miền Bắc, với mục đích cày nát đường đi, cắt đứt mọi sự giúp đỡ từ Bắc vô Nam.

   - Dạ vâng, trước tình hình đó, các bác đã chống chọi với bom rơi đạn nổ của giặc Mĩ như thế nào, thưa bác?

   - Chúng tôi đã cùng nhau động viên nhau, tiến lên phía trước. Chính bản thân tôi là người cầm lái, mặc dù tim đập thình thịch vì trước mắt chính là cái chết, là đang đối diện với tử thần:

   Xe lên đường 9 cheo leo

   Hố bom đỏ mắt, trắng đèo bông lau

   Cây khô, chết chẳng nghiêng đầu

   Nghìn tay than cháy rạch màu trời xanh

   Và lại đường đầy hố chông, hố bom nên những ai không cầm chắc tay lái thì không dám cầm vô lăng. Những chiếc xe vận tải ban đầu được chúng tôi trang bị rất đẹp, đầy đủ phụ kiện nhưng do sự tàn khốc của chiến tranh, bom rơi đạn nổ, đường đất đá gập ghềnh lên đèo xuống dốc nên đã bị tàn phá khủng khiếp, không có kính, không có đèn rồi cũng chẳng có cả mui xe. Thùng xe do va quệt, đất đá bắn vào nên cũng bị trầy xước hết cả. Nếu các cháu tận mắt nhìn những chiếc xe đó thì chẳng khác nào trông thấy một đống sắt vụn hoen rỉ. Còn những chiếc xe mà các cháu trông thấy trong bảo tàng quân đội ấy là những chiếc xe đã được sửa chữa, lắp giáp, sơn dầu lại để trưng bày mà thôi.

   - Cháu đang hình dung, khi cháu phải lái một chiếc xe như vậy, chắc cháu không giám ngồi vào để thử mất. Bởi nó có nhiều nguy hiểm từ ngoại cảnh xung quanh lắm bác nhỉ!

   Người lính già sôi nổi tiếp luôn lời:

   - Cháu cũng lái xe rồi, cháu biết đó, xe không kính, không gương thì nguy hiểm lắm chứ. Có thể nói là sự sống và cái chết gần nhau như gang tấc mà thôi. Đường đất đá gập ghềnh, lại thêm thời tiết hanh khô nên mối đe dọa đầu tiên chính là bụi. Bụi tốc vào người, vào mặt, vào quần áo, tới mức không thể mở nổi mắt ra mà nhìn đường, mà sơ xuất cái là tông ngay xuống vực. Địa hình thì vòng vèo, uốn khúc, nhiều chỗ gấp khúc quanh co nếu không để ý thì cả người cả xe lao luôn xuống vực thẳm, hoặc tông vào hốc đá, gốc cây bất kể khi nào không hay. Có khi đang đi, bỗng gặp cơn mưa rào bất chợt, lúc ấy quần áo đang dính đầy bùn đất lại thêm mưa tuôn, mưa xối xả tấp vào người, vào mặt, lại thêm những con vắt, con rĩn trong rừng cứ mưa là ra bắm đầy tay chân, thật chẳng khác nào cực hình, vừa bẩn, vừa ngứa ngáy khó chịu, khiến việc lái xe vô cùng khó khăn.

   Xe lao qua dốc qua đồi

   Gió tây giội lửa ồi ồi sau lưng

   Bụi bay, bụi đỏ lá rừng

   Mịt mù lối kín, cát bưng đường hầm

   Nóng nung vạt áo ướt đầm

   Thương con bướm trắng quạt ngầm suối khô.

   Thế nhưng, trong lòng như thúc giục, các bác đã lấy tiếng hát để át lại tiếng súng, tiếng bom, vừa đi vừa ngân nga, ngêu ngao hát để quên đi nỗi vất vả. Mỗi lần đưa được hàng hóa tới nơi thì thật là một kì tích đấy cháu.

   Kể tới đây, bỗng người lính già hát lên bài hát "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", thật mộc mạc, tự nhiên, chân chất. Vừa hát, tay vừa đưa ra như đang điều khiển chiếc xe tiến về phía trước:

   Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

   Hai đứa ở hai đầu xa thẳm

   Đường ra trận mùa này đẹp lắm

   Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây

   Trường Sơn Tây anh đi

   Thương em thương em bên ấy mưa nhiều

   Con đường là gánh gạo

   Muỗi bay rừng già cho dài mà tay áo

   Hết rau rồi em có lấy măng không...

   Bác mỉm cười, khuôn mặt ánh lên vẻ rạng rỡ và tự hào. Lời bác hát như chất chứa bao nhiệt huyết, bao sôi nổi của một thời tuổi trẻ nơi chiến trường. Bác dường như đang được sống lại những phút giây lịch sử ấy. Không hiểu sao ngay lúc này, những lời thơ của Phạm Tiến Duật lại ùa về, ngân nga trong lòng tôi. Đó chính là một thực tế ở chiến trường ngày ấy. Thế mà, những người lính cụ Hồ vẫn tràn đầy lạc quan, yêu đời, và tin tưởng vào một ngày mai chiến thắng! Bác lại nói tiếp:

   - Sau mỗi lần trở hàng ra tiền tuyến, các bác trên dọc đường trở về, có nghỉ ngơi một vài chỗ, những lúc nghỉ ngơi ấy được gặp lại đồng hương, bạn bè đồng đội giữa khói lửa chiến tranh như thế thì mừng lắm. Tình đồng chí lúc ấy đối với người lính như các bác đây nó gần gũi, chân thật, thiêng liêng và cao quí lắm. Các bác đã chia nhau từng nắm cơm, giấc ngủ, cho tới từng cuộn chỉ, kim khâu. Sẵn sàng kể cho nhau nghe những câu chuyện về gia đình, về nỗi nhớ cha mẹ, vợ con và tặng cho nhau cả những bài thơ mới việt vội nữa. Người lính mà, dễ bắt chuyện làm quen và thân thiết lắm, một mặt cũng để giải khuây cho đỡ buồn, một mặt là cùng chí hướng cách mạng nên ai cũng như ai, luôn giúp đỡ, coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình: chung bếp lửa Hoàng Cầm, chung bắt đũa là như cảm thấy thân quen tự lúc nào.

   Đang kể, bỗng dưng giọng bác trầm xuống, trong lòng dâng lên một nỗi xúc động ngẹn ngào:

   - Và cũng có biết bao nhiêu những đồng đội của bác nằm tại chiến trường xa xôi ác liệt. Vừa mới tay bắt mặt mừng, kể cho nhau đủ thứ chuyện trên đời, thế mà chỉ trong tích tắc đã thấy xác đồng đội hi sinh ngay trước mắt mình, trong lòng cảm thấy như dao cứa vào da vào thịt vậy. Chôn cất vỗi vã người bạn, người đồng đội của mình, các bác lại phải lên đường ngay tức khắc. Bởi nếu ở quá lâu, giặc phát hiện, chúng ném bom xối xả thì không có cơ man nào mà thoát nổi.

   - "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim". Vâng, lời thơ cuối của "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đã giúp chúng cháu hiểu được đôi phần lí do khiến những người lính anh hùng của một thời rực lửa các mạng như bác đã vượt qua tất cả gian khó, hiểm nguy để tiêu diệt quân thù, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lịch sử giao phó.

   -Đúng thế, thế hệ những ngừoi lính chúng tôi đã khoác áo lính, cầm súng ra mặt trận đã nhất một lòng tiêu diệt giặc, đem lại hòa bình cho đất nước thân yêu. "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trương Sơn" như lời Bác Hồ nói, chúng tôi cũng quyết tâm vì miền Nam ruột thịt, vì Bắc – Nam được xum họp một nhà, giang sơn được thu về một mối: "quyết tâm, quyết tâm".

   Mặc dù chiến tranh đã lùi về quá khư nhưng lời hô của người lính trên sân khấu nghe thật trầm hùng, mạnh mẽ, thể hiện lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc thật dũng cảm, kiên cường của người lính cách mạng.

   Buổi lễ mít tinh giao lưu trò chuyện với người lính lái xe Trường Sơn đã kết thúc trong giờ phút ngắn ngủi nhưng từng câu nói, từng câu chuyện mà bác đã chia sẻ vẫn cứ văng vẳng bên tai tôi. Trong lòng tôi dâng lên một niềm cảm phục, biết ơn sâu sắc với những người anh hùng dân tộc. Chính họ đã viết nên trang sử hào hùng chói lọi của Việt Nam, mang vẻ đẹp rực lửa của một thế hệ người lính cụ Hồ: trẻ trung, lạc quan, dũng cảm và mạnh mẽ, luôn mang trong mình đầy ắp tình yêu quê hương đất nước. Vì thế, tôi sẽ luôn cố gắng hết mình để noi gương những người lính như bác, góp một phần sức lực nhỏ bé của mình đưa đất nước phát triển sáng tươi huy hoàng.

Kể về một kỉ niệm giữa mình và thầy cô giáo

Lứa tuổi học trò, được cắp sách tới trường đối với tôi là một quãng thời gian đẹp nhất. Bởi khi đó, tôi được sống trong tình yêu thương, sự sẻ chia của các thầy cô giáo, của các bạn đồng trang lứa và cả mái trường thân yêu này nữa. Vì thế, nếu nhắc tới kỉ niệm giữa mình và thầy cô, thì tôi chẳng biết phải bắt đầu từ đâu và chọn câu chuyện gì, bởi câu chuyện nào với tôi cũng ắp đầy kỉ niệm đẹp, ngọt ngào. Và có một kỉ niệm gần đây nhất, hồi lớp 8 mà có lẽ suốt cả cuộc đời này tôi sẽ chẳng bao giờ có thể quên được những giây phút ấy. Cám ơn cuộc đời đã mang mẹ về bên con!

   Thời tiết mùa hạ thường kéo đến những cái nóng bức, ngột ngạt và theo sau đó là những bệnh dịch lây truyền sinh sôi phát triển. Vì thế, tôi đã bị ốm sốt virut – một căn bệnh do loài muỗi kí sinh gây ra. Khi ấy, gia đình tôi nghèo lắm, cha mẹ phải xa nhà đi công nhân, tôi ở cùng ông nội. Mặc dù lúc ấy ông tôi đã ngoài 70 tuổi, già cả và cũng hay bị ốm lắm nhưng ông tôi vẫn minh mẫn và chăm sóc tôi rất chu đáo. Biết gia đình tôi khó khăn, các bạn trong lớp và đặc biệt là cô giáo chủ nghiệm – cô Thủy luôn đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tôi và gia đình tôi rất nhiều trong học tập và cả trong đời sống nữa. Có lẽ vì thế, khi nhận được lá đơn xin nghỉ học bị ốm, cô Thủy sau tiết dạy đã đến thăm tôi ngay tức khắc. Tôi biết, một phần cũng là trách nhiệm nhưng cao hơn là tình yêu thương học trò mà ai ai khi ở gần cô cũng cảm nhận được điều đó. Đúng lúc ấy, tôi lên cơn co giật thì cô Thủy bước vào, thấy chân tay tôi lạnh toát và có biểu hiện lạ, cô cũng lúng túng, chỉ biết ôm tôi vào lòng, vuốt ve sau lưng tôi và cố gắng động viên bằng một giọng nói trầm ấm, êm dịu: "Tùng ơi, cố lên con", "có cô bên cạnh đây rồi, chỉ vài phút nữa sẽ có xe đưa con lên bệnh viện thôi, cố lên con", "cô thương con nhiều lắm"... Trong cơn sốt mê man, chập chờn hư hư, thực thực, tôi như một đứa trẻ được gặp mẹ sau bao ngày xa cách, tưởng cô là mẹ, tôi chỉ biết nói và khóc trong hơi thở yếu ớt: "mẹ...mẹ...mẹ". Nước mắt cô nhỏ xuống khuôn mặt nóng hổi của tôi, tôi cảm thấy được đó là giọt nước mắt của đại dương tình yêu thương bao la của một người mẹ hiền.

   Xe cứu thương đã tới, cô cùng đoàn bác sĩ đưa tôi tới bệnh viện. Khi ở trong viện, cô luôn túc trực trông tôi. Còn ông tôi đã già cả, cũng ốm yếu nên ông không thể tới chăm sóc cho tôi được. Trong cơn bất tỉnh, dù không biết được gì nhưng tôi luôn có cảm nhận, cô luôn bên cạnh, trò chuyện với tôi, mong tôi tỉnh lại. Và cô đã nấu cháo, bón cho tôi từng thìa, từng thìa một, nhẹ nhàng, âu yếm như một người mẹ sinh ra tôi vậy. Từng cử chỉ, từng lời nói đều tràn đầy tình yêu của một người mẹ dành cho đứa con ngay thơ, bé bỏng. Lúc này, tôi mới có dịp ngắm nhìn cô kĩ hơn. Dáng người cô cao dong dỏng, mái tóc đen xõa xuống, dài tới ngang lưng, điểm tô trên khuôn mặt gầy gò, đen xạm là hai đôi mắt long lanh, ắp đầy lòng bao dung nhân hậu của một người phụ nữ từ tâm, của một cô giáo đức hạnh. Có lẽ, vì phải thức trông tôi nên mắt cô thâm quầng vì thiếu ngủ. Đang miên man suy nghĩ, thì các bạn trong lớp kéo tới thăm. Cô đi ra ngoài mua chút ít hoa quả cho cả lớp. Trò chuyện với các bạn, thì tôi mới biết cô đã xin nghỉ dạy mấy hôm nay trên trường để vào viện chăm sóc cho tôi. Trong lòng tôi lúc ấy không biết phải làm như thế nào, vừa xen lẫn lòng biết ơn cô, lại vừa trách móc mình đã làm cô vất vả, lao tâm vì mình.

   Xuất viện được trở về nhà, tuy vẫn chưa đi được học ngay vì sức khỏe còn yếu nhưng sau mỗi buổi trưa đi dạy về, cô lại vào thăm tôi, mua hoa quả, bánh trái mà tôi thích ăn với hi vọng tôi nhanh nhanh bình phục, tiếp tục tới lớp. Cô tận tụy giảng lại cho tôi những bài học mà tôi bỏ lỡ và không ngừng bảo ban, dạy dỗ tôi những bài học về tình người ấm áp. Mặc dù bây giờ đã không còn được bên cạnh cô, bởi cô đã cùng gia đình chuyển vào Nam sinh sống nhưng tôi vẫn gọi điện hỏi thăm cô và gia đình. Trong lòng tôi luôn khắc sâu những giây phút và tình cảm yêu thương mà cô dành cho tôi trong suốt quãng thời gian đi học. Tình yêu thương đó là động lực, là hành trang thôi thúc tôi mạnh mẽ, luôn cố gắng nỗ lực hết mình trong học tập, cuộc sống; luôn biết trân trọng những giá trị bình dị, gần gũi mà bền bền vững sâu xa, đó là: gia đình, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước bằng tình thương yêu, sự sẻ chia và lòng biết ơn sâu sắc đối với họ nữa. Nhân ngày 20- 11, tôi xin gửi lời tri ân tới cô – người mẹ thứ hai của cuộc đời tôi: "Con chúc mẹ và gia đình luôn hạnh phúc, bình an..."

Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội

 Trong chúng ta chắc hẳn ai cũng biết ngày 22-12 là ngày gì. Và ngày này có ý nghĩa lịch sử rất lớn đối với dân tộc, với đất nước và với mỗi con người Việt Nam chúng ta. Nó không chỉ trở thành ngày lễ của các chú, các bác trong quân ngũ mà nó còn là ngày vui chung của mọi người trên đất nước Việt Nam.

   Để kỉ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, giáo dục học sinh truyền thống lịch sử lâu dài của dân tộc, trường em đã tổ chức một buổi tham quan Viện Bảo tàng Quân đội. Chuyến đi này đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc và nhiều bài học lí thú, bổ ích. Hơn thế nữa, trong buổi tham quan này, chúng em đã được vào Phòng Truyền thống của Viện bao tàng, gặp gỡ những con người đã đi vào lịch sử dân tộc: Đại tá Bùi Quang Thận – người trực tiếp lái xe tăng tiến thẳng vào Dinh Độc lập Ngày 30-4; Đại tá Lê – người trực tiếp kéo cờ trong ngày Quốc khánh 2-9.

   Cuộc trò chuyện thật là vui vẻ, bổ ích. Chúng em quây quanh hai bác.

   Gương mặt ai ai cũng hớn hở lạ thường; bởi trong lòng mỗi người đều có niềm hãnh diện đã được gặp mặt những người anh hùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Linh Hương – lớp trưởng đứng lên thay mặt cả lớp hỏi thăm sức khỏe của các bác. Nhìn những tấm huân chương sáng lấp lánh trên ngực áo, em thấy một phần công lao của các bác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Bác Lê dịu dàng hỏi:

   – Thế nào, các cháu khỏe chứ? học tập ra sao?

   – Có ạ, có ạ! Học kì một, lớp cháu hầu hết đều được học sinh giỏi, hạnh kiếm tốt đấy bác ạ. – Cả lớp nhao nhao.

   – Thế là rất tốt, rất tốt. Các cháu đã thực hiện tốt năm điều Bác Hổ dạy, ngoan lắm! Bác Lê gật gù:

   Bây giờ các cháu muốn hỏi gì nào?

   Một loạt cánh tay giơ lên nhưng Quý nhanh nhảu giơ tay lên trước:

   – Bác ơi! Tại sao có ngày 22-12 ạ?

   Bác Thận gật đầu, mĩm cười rồi trả lời:

   – Thế này cháu ạ! Vào ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ta ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Không khí lúc bấy giờ sôi sục trong tất cả các khu căn cứ. Chính bác cũng cảm nhận được bầu không khi bận rộn. Tình hình thời cuộc lúc này rất khẩn trương, vào khoảng tháng 10-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ “Phe xâm lược gần đón ngày bị tiêu diệt… Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”. Sau đó, theo chỉ thị của Cụ Hồ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ngày 22- 12-1944 nhằm phát động phong trào đấu tranh cả chính trị và quân sự để thúc đẩy quá trình cách mạng tiến lên mạnh mẽ hơn nữa. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần. Từ đó ngày 22-12-1944 đã trở thành ngày truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Các cháu đã rõ chưa nào?

   Bây giờ thì em đã hiểu xuất xứ ngày 22-12 qua lời kể của bác Thận, hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc và đặc biệt là các chú, các bác trong quân đội. Càng hiểu nơi bắt đầu thì càng phải trân trọng, càng cần phải khắc ghi nó vào tiềm thức. Đó cũng là việc làm thể hiện lòng biết ơn của mình đối với các bậc tiền bốì đã hi sinh để ngày lễ này càng có ý nghĩa và sâu sắc.

   Kế tiếp là câu hỏi của Trang dành cho bác Lê:

   – Thưa bác? Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường lịch sử Ba Đình, bác là người trực tiếp kéo cờ Việt Nam lên cột cờ trong lúc mọi người hát Quốc ca. Cho cháu hỏi: Tâm trạng của bác lúc ấy như thế nào ạ?

   – Đúng là lúc ấy bác giữ trọng trách nặng nề. Bác vừa mừng lại vừa lo. Các cháu có biết vì sao không? Mừng vì bác là người trực tiếp kéo cờ trong một buổi lễ hết sức quan trọng; rất vinh dự và tự hào. Lo là vì phải kéo cờ làm sao cho vừa hết bài Quốc ca thì cờ cũng phải kéo lên đỉnh cột cờ. Trong lúc đang kéo cờ thì bác có một cảm xúc rất khó tả nhưng vô cùng mãnh liệt: Sự xúc động đã lấn át trái tim bác. Lòng bác như muốn nói thật to: Việt Nam tự do! Việt Nam độc lập! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.

   Khuôn mặt bác thể hiện rõ nỗi xúc động cứ đan xen vào nhau. em thấu hiếu rằng ngày 2 -9 có ý nghĩa cực kì to lớn trong mỗi con người Việt Nam, làm đẹp thêm tâm hồn con người và làm vẻ vang thêm trang sử hào hùng của dân tộc Việt. Khuôn mặt mỗi thành viên của lớp 9A6 cũng khác nhau. Có người bộc lộ nét tươi tắn, sung sướng, hãnh diện và tự hào vì đất nước ta đã giành chiến thắng từ tay thực dân Pháp bằng rất nhiều nỗ lực phi thường, cũng có bạn vẻ mặt trầm tư, suy nghĩ. Có lẽ bạn đang nghĩ, để có được hòa bình, độc lập như hôm nay, dân tộc ta đã đổ không biết bao nhiêu xương máu, bao con người đã ngã xuống cho Tổ quốc quyết sinh.

   Sau đó, bác Thận lại kể cho chúng em nghe về chiến thắng lịch sử ngày 30-4. Nhờ có lời kể của bác mà chúng em biết được chiến thắng lẫy lừng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và sự giúp đỡ to lớn của bạn bè năm châu.

   Chính lúc này đây, em thật sự cảm động. Sự biết ơn, niềm tự hào, một chút hãnh diện, một chút hổ thẹn đã tạo nên trong lòng em một cảm xúc khó tả. Em đứng lên phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của mình.

   Cháu xin thay mặt cho các bạn ngồi đây có đôi lời phát biểu. Thế hệ chúng cháu may mắn sinh ra đã được hưởng một nền hòa bình. Chúng cháu biết, để có được ngày hôm nay, cả dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều. Chúng cháu rất biết ơn các bác, những người đã hi sinh biết bao công sức và xương máu để bảo vệ đất nước. Chúng cháu hứa nguyện sẽ nỗ lực rèn luyện, học tập và tu dưỡng đạo đức để mai sau xây dựng đất nước vững mạnh hơn. Và ngày mai bắt đầu từ ngàv hôm nay. Ngay bây giờ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng cháu sẽ cố gắng học tập tốt, để khi vào đời góp phần đưa nước ta sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Chúng cháu sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống mà cha anh đi trước để lại. Cuối cùng, cháu xin chúc các bác một sức khỏe dồi dào để công tác tốt.

   Em vừa kết thúc câu nói, một tràng pháo tay rộn rã vang lên. Tiếp theo, chúng em cùng các bác đi thăm Viện Bảo tàng. Vừa đi, các bác vừa giảng giải cho chúng em về truyền thống yêu nước của dân tộc ta. Trời gần trưa, ánh nắng bắt đầu gay gắt, chúng em luyến tiếc chia tay các bác để lên xe ô tô trở về trường.

   Buổi ngoại khóa tuy kết thúc nhưng đã để lại trong lòng chúng em biết bao cảm xúc. Đối với riêng em, đây là một dịp để nói lên những suy nghĩ của mình với thế hệ cha anh đi trước, tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng hơn.

Nguồn: vietjack