Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Uy-lít-xơ trở về

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 11:46:39


Mục lục
* * * * *

Phân tích đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

I-lit-át và Ô-đi-xê là hai sử thi nổi tiếng của Hi Lạp, vẫn thường được cho là Hô-me-rơ sáng tác. Tác phẩm đề cao, ngợi ca vẻ đẹp trí tuệ của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và khám phá thế giới. Nổi bật trong sử thi Ô-đi-xê là người anh hùng trí tuệ Uy-lít-xơ. Vẻ đẹp phẩm chất trí tuệ của chàng được thể hiện một cách đầy đủ trong đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về”.

     Uy-lít-xơ sau khi dành chiến thắng thành Tơ-roa, trải qua nhiều biến cố, nhận được sự giúp đỡ của nhà vua An-ki-nô-ốt đã trở về quê hương. Nhưng khi trở về nhà chàng lại phải đối mặt với một nguy cơ mới: 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn vợ chàng là nàng Pê-lê-nốp, hòng đoạt tài sản của gia đình. Bằng sự mưu trí chàng đã đánh đuổi chúng ra khỏi nhà và trừng trị kẻ phản trắc. Nhưng Pê-lê-nốp vẫn không tin chồng mình đã trở về. Đoạn trích là thử thách để hai vợ chồng nhận ra nhau và gia đình đoạn tụ.

     Nghe tin chồng trở về Pê-nê-lốp vô cùng hạnh phúc, nhưng là một người phụ nữ thông minh và kiên định, Pê-nê-lốp vẫn nghi ngờ. Nhũ mẫu là người thân cận với Pê-nê-lốp là người trung thực, có uy tín trong gia đình nên mọi lời nói của bà đều rất có trong lực trong nhà. Bà là người đã thông báo tin dẹp tan những kẻ cầu hôn và chồng nàng đã trở về, nàng vô cùng vui mừng. Đây là cảm xúc tất yếu củ người vợ đang nhớ thương và xa chồng lâu ngày, nó còn biểu thị cho lòng chung thủy, nỗi nhớ mong khắc khoải đợi chồng của nàng. Nhưng vốn là người thận trọng nên nàng không tin ngay những lời nhũ mẫu nói. Khi gặp lại Uy-lít-xơ nàng “rất đỗi phân vân” và nàng lung túng “không biết nên đứng ra xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn”. Nàng vẫn thận trọng dò xét, tính toán nhưng cũng dâng lên niềm xúc động. Không chỉ chịu sự tác động của nhũ mẫu, nàng còn chịu sự tác động của con trai. Tê-lê-mác trách cứ mẹ gay gắt, trước những lời ấy nàng vẫn phân vân, chưa biết sẽ phải làm thế nào.

     Và trong lúc ấy nàng đã nảy ra ý định sẽ đưa ra thử thách với chồng mình. Nàng không nói trực tiếp mà rất nhã nhặn thông qua con để nói với Uy-lít-xơ về những “dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết”. Là một người thông minh Uy-lít-xơ ngay lập tức nhận ra ý định thử thách của vợ. Uy-lít-xơ mỉm cười, đó là cái mỉm cười của sự bình tĩnh, bản lĩnh, tự tin vào trí tuệ của mình.

     Uy-lít-xơ lên tiếng trách cứ Pê-nê-lốp được “các thần trên núi Ô-lem-pơ ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối”. Chàng nói với nhũ mẫu tìm cho mình chiếc giường để ngủ, hàm ý để nói về chiếc giường của hai vợ chồng. Ngay lập tực, Pê-nê-lốp sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường ra cho Uy-lít-xơ. Nghe những lời Pê-nê-lốp nói, Uy-lít-xơ tinh ý nhận ra thử thách của mình, chàng “giật mình” vì đó là chiếc giường không thể xê dịch. Chàng kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm chiếc giường: đó là chiếc giường mà bốn chân được làm từ bốn gốc cây ô liu, chiếc giường do chính chàng thiết kế và thi công. Chiếc giường ngập tràn kỉ niệm và chứa đựng tình yêu vô bờ Uy-lít-xơ dành cho vợ. Tất cả những điều ấy làm sao Uy-lít-xơ có thể quên. Nhắc lại những điều đó Uy-lít-xơ vừa nhắc lại kỉ niệm, tình cảm thắm thiết của hai vợ chồng, vừa là để chứng minh cái giấu hiệu riêng mà Pê-nê-lốp vừa nhắc đến trước đó. Hai con người tài trí, thông minh đã tìm được cách để xác nhận sự thật, và giải quyết thử thách. Đây là sự gặp gỡ, hòa hợp của hai trí tuệ sắc sảo.

     Sau khi nhận ra nhau, Pê-nê-lốp mới bày tỏ nỗi lòng mình, nàng nói rõ vì sao bao lâu nay nàng khép lòng mình. Bởi nàng luôn lo sợ những kẻ gian xảo đánh lừa. Đó là một lí do chính đáng thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng với chồng. Tấm lòng ấy giúp nàng xứng đáng được hưởng sự đoàn viên và hạnh phúc gia đình trọn vẹn.

     Tạo nên thành công cho tác phẩm ta còn phải kể đến nghệ thuật dựng truyện đặc sắc, cách xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính. Tính cách nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, có những diễn biến tâm lí phức tạp qua cử chỉ, hành động của nhân vật. Ngôn ngữ cũng là một điểm nhấn của tác phẩm. Tác giả sử dụng hệ thống ngôn ngữ trang trọng, thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật.

     Qua cảnh vợ chồng đoàn tụ sau hai mươi năm xa cách, với nghệ thuật kể chuyện và lựa chọn chi tiết đặc sắc, tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp. Tình yêu và trí tuệ chính là hai vẻ đẹp tiêu biểu mà con người thời đại Hô-me-rơ luôn hướng tới.

Cảm nhận đoạn trích Uy-lít-xơ trở về

Hô-me-rơ, nhà thơ mù của Hi Lạp sống vào thế kỷ IX và XIII trước Công nguyên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nghèo bên kia sông Mê-lét. Hai bộ sử thi đồ sộ I-li-at và Ô-đi-xê là những cống hiến của ông cho văn học.

   Tác phẩm ra đời vào thời kì người Hi Lạp mở rộng địa bàn hoạt động ra biển cả. Trong sự nghiệp khám phá và chinh phục thế giới bao la và bí hiểm đó. Con người ngoài lòng dũng cảm đòi hỏi phải có những phẩm chất cần thiết như thông minh, tỉnh táo, mưu chước, khôn ngoan. Hình tượng Uy-lít-xơ chính là lí tưởng hoá sức mạnh của trí tuệ của người Hi Lạp.

   Mặt khác ô-đi-xê ra đời khi người Hi Lạp sắp bước vào ngưỡng cửa của chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ đây con người giã từ chế độ công xã thị tộc để thay vào đó tổ chức gia đình. Hôn nhân một vợ chồng xuất hiện. Nó đòi hỏi tình cảm quê hương, gia đình gắn bó, thuỷ chung. Hô-mê-rơ là một thiên tài dự đoán cho thời đại ông. Cả hai ý tưởng trí tuệ và tình yêu chung thuỷ được thể hiện trong đoạn trích Uy-lít- xơ trở về.

   Trí tuệ và tình yêu của Uy- ỉít-xơ và Pê-nê-lốp biểu tượng những phẩm chất cao đẹp của người cô đại Hy Lạp khát khao vươn tới qua lối mưu tả râm lý, lối so sánh, giọng điệu kể chuyện.

   Ô-đi-xê kể lại cuộc hành trình về quê Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Tác phẩm gồm 12110 câu thơ chia làm 24 khúc ca. Câu chuyện bắt đầu từ thời điểm Uy-lít-xơ đang bị nữ thần Ca-lip-xô dâng linh đan để chàng trường sinh bất tử cùng chung sống với nàng. Các thần cầu xin Dớt. Thần Dớt lệnh cho Ca-lip-xô phải để chàng đi. Uy-lít-xơ gặp bão, thần biển trả thù Uy-lít-xơ vì chàng đã đâm thủng mắt Xi-clôp- đứa con trai của thần, Uy-lít-xơ may mắn dạt vào xứ sở của An-ki-nô-ôt. Biết chàng là ngời đã làm nên chiến công thành Tơ-roa. Nhà vua yêu cầu chàng kể lại cuộc hành trình từ ca khúc I tới ca khúc XII. Được nhà vua An-ki-nô-ốp giúp đỡ, Uy-lít-xơ đã trở về quê hương. Lúc đó Pê-nê-lốp - vợ của chàng tại quê nhà phải đối mặt với 108 tên vương tôn công tử đến cầu hôn. Uy-lít-xơ cùng con trai và đám gia nhân trung thành lập mưu trừng trị bọn chúng, gia đình Uy-lít-xơ được xum họp một nhà.

   Đoạn trích thuộc khúc ca XVIII trong Ô-đi-xê. Trước đoạn trích này là Uy-lít-xơ giả vờ làm người hành khất vào được ngôi nhà của mình và kể cho Pê-nê-lốp nghe những câu chuyện về vợ chồng nàng mà anh ta biết. Pê-nê-lốp tổ chức thi bắn. Dựa vào đó hai cha con Uy-lít-xơ đã tiêu diệt 108 vương tôn công tử láo xược và những gia nhân không trung thành. Đoạn trích này bắt đầu từ đó.

   Qua đoạn trích, tác giả đã khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Pê-nê-lốp và của Uy-lít-xơ.

   Tâm trạng của Uy-lít-xơ khi gặp lại vợ và gia đình: chàng vừa mừng rỡ, hồi hộp, vui sướng, nhưng vẫn rất bình tĩnh, sáng suốt. Chàng đóng vai người hành khất, bình tĩnh lập mưu kế cùng cậu con trai là Tê-lê-mác giết chết bọn cầu hốn láo xược và những giai nhân phản bội. Khi gặp lại vợ, chàng vẫn bình tĩnh, cố kiên nhẫn chờ Pê-nê-lốp nhận ra mình. Cái mỉm cười của Uy-lít-xơ "Nghe nàng nói vậy, Uy-lít- xơ cao quý và nhẫn nại mỉm cười"... cho thấy trí tuệ và nhân phẩm cao quý của chàng.

   Tâm trạng "rất đỗi phân vân" của nàng thể hiện ở dáng điệu, cử chỉ, sự lúng túng tìm cách ứng xử: "Không biết nên đứng xa hỏi chuyện người chồng yêu quýcủa mình hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay mà hôn". Nàng dò xét, suy nghĩ, tính toán mông lung nhưng cũng không giấu được sự bàng hoàng xúc động khôn cùng: "Ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp".

   Việc chọn cách thử "bí mật của chiếc giường" cho thấy Pê-nê-lốp là con người trí tuệ, thông minh và tỉnh táo biết kìm nén tình cảm của mình. Bên cạnh sự thông minh, tỉnh táo là sự thận trọng của nàng. Điều đó rất phù hợp với hoàn cảnh của nàng lúc này. Pê-nê-lốp là người tỉnh táo mà tế nhị, kiên quyết mà thận trọng, trí tuệ mà rất giàu tình cảm, phẩm chất cao thượng.

   Cách kể chuyện của Hô-me-rơ qua đoạn trích tạo hiệu quả bất ngờ và xúc động làm nổi bật phẩm chất của Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ.

   Biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong đoạn trích là tương phản, tạo kịch tính, gây bất ngờ...

   Trong đoạn cuối, biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công là so sánh: Hình ảnh "mặt đất" và "người đi biển" nói lên tâm trạng khao khát đến tuyệt vọng, nhưng cũng mừng vui khôn xiết của nàng Pê-nê-lốp khi gặp lại người chồng yêu dấu sau hai mươi năm vì chiến tranh và lưu lạc.

   Tâm trạng của Pê-nê-lốp khi gặp lại chồng được so sánh với người đi biển bị đắm tàu, trong cơn tuyệt vọng bỗng nhận ra đất liền.

Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Uy–lít-xơ

Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” của Hô-me-rơ đã cho thấy vẻ đẹp trí tuệ và tình yêu chung thủy của chàng đối với người vợ đã xa cách hàng chục năm. Chàng là đại diện cho vẻ đẹp trí tuệ của cộng đồng.

     Bằng tình yêu quê hương, tình yêu gia đình cùng với lòng dũng cảm, trí tuệ sắc sảo, Uy-lít-xơ đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trắc trở để về bên gia đình thân yêu. Khi đặt chân lên mảnh đất thân yêu, chàng lại phải đối mặt với 108 tên cầu hôn hung hãn, tìm mọi cách hòng chiếm đoạt gia sản của gia đình chàng. Nhưng bằng sự thông minh và sự giúp sức của những người khác, chàng đã tiêu diệt được chúng. Tuy nhiên thử thách cuối cùng, khó khăn nhất với chàng chính là người vợ thủy chung, đầy trí tuệ Pê-nê-lốp. Trái tim Pê-nê-lốp từ khi Uy-lít-xơ đi đã đóng kín, vậy Uy-lít-xơ làm cách nào để có thể mở cảnh cổng lòng ấy ra? Đoạn gặp gỡ vợ là một chuỗi những tâm trạng, cảm xúc khác nhau của chàng. Thông qua cách xử lí ta còn thấy chàng là người vô cùng thông minh, nhanh trí.

      Trước hết, khi trở về sau khi đánh đuổi bọn cầu hôn dù vô cùng nhớ vợ, và muốn đoàn tụ cùng gia đình nhưng Uy-lít-xơ vẫn hết sức kiên nhẫn đợi chờ những hành động âu yếm, tình cảm của vợ, chàng không vồ vập, không yêu cầu vợ phải tin mình ngay, vì chàng hiểu vợ mình là người vô cùng thận trọng. Sự kiên nhẫn của Uy-lít-xơ được đối sánh với nhũ mẫu Ơ-ri-cle và người con trai Tê-lê-mác. Nhũ mẫu đã nhiều lần khẳng định đó là Uy-lít-xơ để Pê-nê-lốp yên tâm, thậm chí con trai nàng Tê-lê-mác còn nổi cáu với mẹ: “mẹ ơi, ,mẹ thật tàn nhẫn, và lòng mẹ độc ác quá chừng”, nhưng mọi người càng hối thúc bao nhiêu thì Pê-nê-lóp càng thận trọng bấy nhiều. Đáp lại Uy-lít-xơ cũng vô cùng kiên nhẫn đợi chờ người vợ thân thương và nói: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy”. Đó là phong thái, phẩm chất của một bậc anh hùng, chỉ đến khi Pê-nê-lốp thừa nhận mình, chàng mới giải thích rõ lí do.

     Không chỉ vậy, khi Pê-nê-lốp chưa nhận ra mình, Uy-lít-xơ còn tỏ ra giận dỗi và vô cùng lo âu. Đây cũng là nét tâm lí thường thấy của những người chồng khi xa nhà đã lâu, nay trở về vợ vẫn kiên quyết không nhận, chàng lo âu, giận dỗi cũng chính là biểu hiện của một tình yêu cao đẹp, của sự thủy chung son sắt. Sau khi rũ bỏ lớp quần áo bẩn thỉu, thay bộ quần áo mới, Uy-lít-xơ trông “đẹp như một vị thần”, nhưng Pê-nê-lốp vẫn kiên định không nhận chàng. Uy-lít-xơ vô cùng đau khổ mà than với vợ: “Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế,…”. Và chàng đã đưa ra một yêu cầu hết sức khôn ngoan để thử người vợ của mình: “Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”. Chàng đã vô cùng ngạc nhiên, sửng sốt khi Pê-nê-lốp yêu cầu nhũ mẫu mang chiếc “giường kiên cố” ra cho Uy-lít-xơ nằm. Tâm trạng chàng vô cùng âu lo, bởi đó là chiếc giường không thể di chuyển được, nếu mang được nó ra tức là nàng Pê-nê-lốp đã không còn chung thủy với chàng, Uy-lít-xơ sẽ mất tất cả. Chàng sợ hãi hơn bao giờ hết.

     Uy-lít-xơ nhanh chóng kể những đặc điểm, chi tiết đặc biệt của chiếc giường với giọng điệu lo âu “chột dạ”: “Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này” “Đây là chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai” và chàng bắt đầu kể ra những đặc điểm của nó, bí mật mà chỉ hai vợ chồng chàng mới biết. Nghe những lời chồng kể chi tiết, rành mạch Pê-nê-lốp như vỡ òa trong hạnh phúc, những giọt nước mắt cứ thế tuôn trào. Đây là những giọt nước mắt sung sướng và hạnh phúc nhất của Pê-nê-lốp kể từ ngày Uy-lít-xơ rời xa căn nhà yêu dấu. Bấy giờ trong dòng nước mắt nàng mới nghẹn ngào thanh minh về sự chậm trễ âu yếm của mình với chồng. Hình ảnh nàng khóc trong hạnh phúc cùng với đó là lời thanh minh gây xúc động sâu sắc trong lòng người đọc, nó cho gạt bỏ hoàn toàn mọi hiểu nhầm, nghi ngại bấy lâu nay. Đồng thời cũng gợi được nỗi cảm thông với vợ trong lòng Uy-lít-xơ: “Uy-lít-xơ càng thêm muốn khóc” “ôm lấy người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thủy của mình mà khóc dầm dề”. Hai tiếng khóc ấy hòa vào nhau, càng nhấn mạnh hơn nữa niềm hạnh phúc, sung sướng vô bờ khi được đoàn tụ với vợ, với gia đình.

     Chỉ trong một đoạn trích ngắn, nhưng tâm trạng của Uy-lít-xơ đã được bộc lộ một cách đầy đủ, với vô vàn cung bậc cảm xúc khác nhau. Cho thấy tình yêu gia đình vô bờ bến, đồng thời bộc lộ những vẻ đẹp phẩm chất của chàng. Bức tranh tâm trạng Uy-lít-xơ được tái hiện còn cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Hô-me-rơ.

Phân tích vẻ đẹp của Pê-nê-lốp trong đoạn trích Uy-lít-xơ trở về 

Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” của tác giả Hô-me-rơ đã cho ta thấy vẻ đẹp tình cảm cũng như trí tuệ của hai con người toàn tài là Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp. Nếu như Uy-lít-xơ hiện lên với sự thông minh, bình tĩnh thì Pê-nê-lốp vợ chàng cũng hiện lên với những phẩm chất hết sức đẹp đẽ.

     Trước khi đi tìm hiểu những vẻ đẹp phẩm chất của nàng, chúng ta cần hiểu rằng bấy giờ chế độ mẫu hệ đã rời xa, bằng chứng là vị thần đứng đầu trên đỉnh Ô-lem-pơ là Thần Dớt. Lúc này cần sức mạnh trí tuệ và cơ bắp của người đàn ông. Nhưng sử thi này vẫn ca ngợi người phụ nữ, đây là một quan niệm mới mẻ, sâu sắc.

     Trước hết, Pê-nê-lốp là một người con gái xinh đẹp, có nhan sắc. Bởi vậy nên trong suốt những năm tháng chồng nàng là Uy-lít-xơ xa nhà đã có vô số những kẻ đến cám dỗ hòng mong nàng nhận lời cầu hôn. Không chỉ vậy, ngay cả về phía Uy-lít-xơ nhiều năm xa nhà, nhưng vẫn một lòng hướng về nàng, hướng về gia đình, vượt qua bao khó khăn thử thách để trở về, cũng ngầm khẳng định vẻ đẹp của nàng. Nhưng ở Pê-nê-lốp nổi bật hơn cả là vẻ đẹp phẩm chất và trí tuệ.

     Trước hết nàng là người vợ thủy chung, son sắt luôn một lòng đợi chồng trở về. Trong suốt hơn hai mươi năm chồng xa nhà, đã có biết bao người đến cầu hôn nàng, bên cạnh đó còn là sự giục giã của cha mẹ buộc nàng phải tái giá. Nhưng nàng vẫn kiên nhẫn chờ chồng. Không chỉ vậy nàng còn nghĩ ra mưu kế về tấm thảm ngày dệt, đêm tháo để trì hoãn việc tái giá, đây đồng thời cũng tạo ra cơ hội để nàng đợi chồng trở về. Và dù đã phải chờ đến hai mươi năm, nhưng trong những lời tâm sự với nhũ mẫu, Pê-nê-lốp vẫn khẳng định, dù Uy-lít-xơ có không trở về, nàng vẫn sẽ tìm ra mọi cách để không tái giá. Và giây phút hạnh phúc nhất của nàng chính là đã xác minh được người đàn ông hành khất kia, người đã đánh bại 108 kẻ cầu hôn chính là chồng mình, thái độ của nàng đã hoàn toàn thay đổi. Nàng giải thích trong hàng nước mắt: “Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác,…” và những cử chỉ với chồng thật âu yếm: “ Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng xiết bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời”. Nàng bày tỏ niềm vui, hạnh phúc một cách hồn nhiên, bồng bột bởi không kiềm chế được cảm xúc, những cử chỉ, lời nói vô cùng âu yếm, tràn đầy tình yêu thương.

     Không chỉ vậy, Pê-nê-lốp còn hiện lên với vẻ đẹp của trí tuệ - khôn ngoan và thận trọng. Trước hết, nàng là một người hết sức khôn ngoan. Để có thể trì hoãn, kéo dài thời gian đợi chồng về, nàng đã nghĩ ra mưu kế tấm thảm ngày dệt đêm tháo nên không bao giờ tấm thảm được hoàn thành, bởi vậy cũng chẳng bao giờ có việc nàng chấp nhận lời cầu hôn của một trong 108 tên kia. Đây quả là một diệu kế, chính nó đã giúp nàng kéo dài thời gian lâu đến vậy, để đợi được đến ngày Uy-lít-xơ trở về đoàn tụ cùng gia đình. Không chỉ vậy, khi nghe những lời nhũ mẫu khẳng định về chiếc sẹo do răng một con lợn nòi húc để lại trong một lần Uy-lít-xơ đi săn nhưng Pê-nê-lốp vẫn rất đỗi “phân vân”, trong lòng nàng vẫn đầy nghi ngờ và để đập tan nỗi nghi ngờ ấy nàng nghĩ ra một kế hoạch cực kì thông minh, thử thách Uy-lít-xơ về bí mật chiếc giường cưới mà chỉ có hai vợ chồng nàng mới biết.

     Cách nàng đưa ra bài toán rất tự nhiên khiến không ai có thể nghi ngờ. Chỉ có Uy-lit-xơ mới nhận ra sự bất thường trong bài toán ấy. Nhận ra có vấn đề là người biết sự thật, biết sự thật mới là Uy-lit-xơ. Khi Uy-lít-xơ rất giận dỗi, hờn trách “Già hãy kê cho tôi một chiếc giường ngủ vì trái tim trong ngực nàng làm bằng sắt”, đáp lại lời chàng Pê-nê-lốp nói với nhũ mẫu: “Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải trên giường”. Uy-lít-xơ giật mình bởi chiếc giường do chính nàng làm nên từ gốc cây nên không thể di chuyển. Từ chỗ bất ngờ, Uy-lít-xơ nói hết những đặc điểm có một không hai về chiếc giường, mà chỉ có chàng và Pê-nê-lốp biết. Đây chính là sự không ngoan để xác minh sự thật, để đón nhận hạnh phúc trọn vẹn mà không còn nghi ngờ.

     Không chỉ vậy nàng còn là người vô cùng thận trọng. Sự thận trọng thể hiện gián tiếp qua việc tác giả sử dụng đến bốn lần từ “Thận trọng nói” trước mỗi câu nói của Pê-nê-lốp. Nó không chỉ được thể hiện gián tiếp mà còn được thể hiện trực tiếp qua chính ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Khi nhũ mẫu vui mừng báo tin Uy-lít-xơ đã trở về, Pê-nê-lốp hoàn toàn không tin đó là sự thật. Nàng đưa ra hai lí lẽ để phản bác lại ý kiến của nhũ mẫu: thứ nhất đó là một vị thần xuống trừng trị những kẻ láo xược và hành động nhuốc nhơ của chúng; thứ hai “còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người chàng cũng đã hết hi vọng trở lại đất A-cai, chính chàng cũng đã chết rồi”. Khi nói ra những điều này có lẽ nàng rất đau khổ, nhưng cũng cho thấy nàng vô cùng thận trọng, bĩnh tĩnh để chỉ ra sự vô lí trong các thông tin mà nhũ mẫu đưa ra. Nhũ mẫu đưa ra bằng chứng thứ hai, nhũ mẫu cho đó là không thể cãi lại được chính là vết sẹo trên tay của Uy-lít-xơ. Nhưng ngay cả bằng cớ đó, bản thân nàng chưa thật làm tin tưởng người hành khất kia chính là chồng của mình. Và trong nàng bắt đầu có sự phân vân, liệu đây có phải là Uy-lít-xơ thật sự hay không. Nàng xuống nhà xem xác 108 người cầu hôn và cũng là để xác minh người hành khuất kia có đúng là chồng nàng hay không.

     Bản thân nàng rất muốn tin đó là chồng mình, nhưng nàng là người thận trọng nên vẫn muốn tìm thêm bằng cơ để chứng minh. Khi gặp Uy-lít-xơ nàng ngồi phía đối diện để có cơ hội nhìn thật kĩ, thật rõ người hành khất. Lúc quan sát nàng lại vô cùng phân vân, lúc thì nghĩ đó là chồng mình, có lúc lại không tin người hành khất đó là chồng mình bởi hình dáng rách rưới không giống Uy-lít-xơ nàng vẫn biết. Trước những lời Tê-lê-mác trách móc nàng là người độc ác và sắt đá, nàng vẫn kiên định, thận trọng: “nếu đúng là cha, thì cha mẹ sẽ nhận ra nhau”. Đến đây Pê-nê-lốp không phủ nhận nữa nhưng nàng cần có thêm những bằng cớ khác để xác nhận người đàn ông kia là chồng mình.

     Qua đây là có thể thấy rằng, Pê-nê-lốp là người phụ nữ vô cùng thận trọng. Bản thân nàng cũng vô cùng muốn nhận chồng, nhưng lại sợ những kẻ ác đến đánh lừa mình. Trong hai mươi năm chồng đi vắng, nàng đã phải đối mặt với 108 kẻ cầu hôn và những kẻ gia nhân phản bội. Bởi vậy, mọi sự thận trọng của nàng là hoàn toàn hợp lí. Sau tất cả, chỉ khi Uy-lít-xơ giải được bài toán về chiếc giường thì Pê-nê-lốp mới tin đó là chồng mình. Khi ấy tình yêu với chồng mới được thể hiện một cách rõ ràng, nồng nàn nhất.

     Với nghệ thuật miêu tả tâm lí xuất sắc, Hô-me-rơ đã có thấy vẻ đẹp nhan sắc cũng nhưng vẻ đẹp trí tuệ, phẩm chất của nàng Pê-nê-lốp. Vẻ đẹp của Pê-nê-lốp là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp người phụ nữ Hi Lạp cổ đại. Qua đó cho thấy thái độ ngợi ca, tôn vinh, những bước phát triển mới trong cách nhìn nhận vẻ đẹp người phụ nữ của tác giả.

Trong vai Tê-lê-mác kể lại buổi Uy-lit-xơ trở về

Tôi là Tê-lê-mác, con trai của vị anh hùng Uy-lít-xơ. Sau khi hạ được thành Tơ-roa, người cha vĩ đại của tôi đã phải trải qua hai mươi năm lênh đênh trên biển cả, đương đầu với rất nhiều thử thách trước khi về được quê hương I-tác.

   Thuyền của nhà vua xứ Phê-a-ki đưa cha tôi về I-tác, cập bến vào đúng thời điểm mẫu thân tôi đang gặp rắc rối vì bọn cầu hôn thúc ép. Bà tìm cách chối từ, bèn lấy chiếc cung của cha tôi ra, giao hẹn: hễ kẻ nào gương được cung, bắn xuyên qua mười hai cái vòng rìu thì bà sẽ lấy kẻ đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, trừ một người. Ây chính là cha tôi. Tôi nhận ra ông ngay lập tức bởi thần hình vạm vờ, lực lưỡng cánh tay giương cung nỗi cơ bắp cuồn cuộn, rắn chắc, ánh mắt cháy rừng rực như ngọn lửa mặt trời. Tôi kể nhanh sự tình và cùng cha trừng trị bọn cầu hôn cũng như những gia nhăn phản bội. Lúc rửa chán cho cha, nhũ mẫu ơ-ri-clê đã nhận ra người qua vết sẹo ở chân và mặc dù bị cha ngăn lại, nhũ mẫu vẫn đem chuyện kể cho mẫu thân. Thật trái với những gi tôi tưởng tượng, mẫu thân tôi không tin.

   Sau bao năm xa cách, lẽ ra giây phút gặp lại, cha mẹ phải ôm hôn nhau thắm thiết, nhưng thật không thể thiếu nổi: cha ngồi dựa vào một cây cột cao, mắt nhìn xuống đất trong khi mẹ bước qua ngưỡng cửa bằng đá đến ngồi trước mặt dựa vào một bức tường dối diện. Giữa hai người là bếp hồng cháy rừng rực. Im lặng. Một sự im lặng khó hiểu đến nghẹt thở khiến tôi không thể chịu nổi. Tôi thấy mẹ tôi thật bất công với cha bèn buông lời trách bà gay gắt, rằng: người thật độc ác, thật nhẫn tâm, trái tim người là bằng sắt đá...

   Mặc dù bị tôi, đứa con yêu trách cứ nặng nề, nhưng Pê-nê-lốp, mẹ tôi, vẫn nói những lời thận trọng. Người nói với tôi để bóng gió với cha rằng họ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi những lời có cánh. Tôi chỉ biết đáp lại: "Cha thân yêu, việc này xin để tùy cha định liệu, vì xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp".

   Nói rồi, theo lời cha, mọi người tắm rửa, ca hát nhảy múa như trong nhi; đang làm lễ cưới. Cha cũng đi tắm và khi từ phòng tắm bước ra, trông người đẹp như một vị thần. Người trở về chỗ cũ, đối diện với mẹ và nói: Khốn khổ! Hẳn là các thần tiên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết... vì một người khác chắc không có gan ngồi xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở". Người quay sang nói với nhũ mẫu Ơ-ric-lê: "Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình". Mẹ tôi vẫn rất thận trọng đáp lời cha tôi và nói với nhũ mẫu: "Ơ-ric-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường".

   Mẹ nói vậy có ý thử cha và cha bỗng giật mình hỏi: "Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này". Cha tôi đã kể liền một mạch về bi mật chiếc giường mà chỉ hai người biết. Sở dĩ chiếc giường không thể xê dịch được là vì một chân giường do chính ta cha làm bởi gốc cây Ô-liu cổ thụ có rễ bám chặt vào lòng đất. Cha còn kể tỉ mỉ về những vật dụng, những đồ trang trí trong phòng khiến mẹ tôi nghe mà bủn rủn cả chân tay. Tới lúc đó người mới chạy lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ cha, hôn lên trán người và nói: "Uy-lít-xơ Xin chàng chớ giận thiếp". Rồi cứ thế, cha mẹ tôi ôm nhau khóc Đó là những giọt nước mắt. hạnh phúc của giâv phút đoàn tụ sau hai mươi năm xa cách với muôn vàn sóng gió.

   Nhìn cảnh tượng cha mẹ hạnh phúc, tôi cảm động và sung sướng vô cùng. Tói thầm cảm ơn thần Dớt, vị thần tối cao, cảm ơn các vị thần trên đỉnh Ô- lem-pơ!

Tê-lê-mác kể lại cảnh người cha Uy-lít-xơ trở về

Sau hơn hai mươi năm trời ròng rã xa quê hương, phải chịu bao nhiêu gian nan, thử thách, giờ thì cha tôi đã trở về nhà. Chỉ có điều là cha giấu mình trong bộ dạng của một kẻ ăn mày rách rưới. Cha làm như vậy để thử xem người vợ hiền yêu dấu của mình có nhận ra mình hay không.

   Trong thời gian dài, cha tôi vắng nhà, mẹ tôi phải thường xuyên đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Pê-nê-lốp - Người đàn bà thông minh xinh đẹp là mẹ cùa tôi, luôn phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để kéo dài thời gian, hy vọng cha tôi sẽ trở về.

   Vì nói là có biết một số điều về Uy-lít-xơ nên gã hành khất - tức là cha tôi đã lọt vào trong ngôi nhà của mình. Ông được mẹ tôi cho phép ở lại để kể cho mẹ tôi nghe những điều về người chồng yêu quý mà mẹ đang mong mỏi đợi chờ. Hôm sau, mẹ tôi tổ chức một cuộc thi bắn cung và ra điều kiện nếu ai giương được cây cung của Uy-lít-xơ thì sẽ lấy làm chồng. Hàng trăm kẻ quý tộc không kẻ nào nâng nổi. Gã hành khuất xin tham dự và đã thắng. Tôi nhận ra cha. Với cây cung trong tay, cha tôi đã đánh đuổi tiêu diệt những kẻ cầu hôn quấy nhiễu và lũ đầy tớ phản chủ. Bà nhũ mẫu Ơ-ri-lê lên gác báo tin là Uy-lít-xư đã trở về nhưng mẹ tôi không tin và bảo rằng bà chớ vội vui mừng vì có lẽ ugười đánh tan lũ cầu hôn láo xược là một vị thần nào đó. Còn Uy-lít-xơ thì không còn hy vọng trở về vì chàng đã chết.

   Nhũ mẫu vẫn một mực khẳng định là cha tôi đang ở dưới nhà và giục mẹ tôi hãy mau xuống đón mừng. Bà còn nói rõ dấu hiệu khó quên là cái sẹo ở chân cha tôi, dấu vết của một lần ông đi săn bị nanh trắng của con lợn nòi húc vào. Mẹ tôi vẫn chưa tin, quay sang bảo nhủ mẫu hãy cùng xuống nhà để xem xác chết của bọn cầu hôn và kẻ giết chúng.

   Xuống đến nơi, mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa bằng đá rồi đến ngồi trước mặt cha tôi, trong khi ông tựa lưng vào cái cột, mắt nhìn xuống đất, hồi hộp xem người vợ cao quý sẽ nói gì khi nhận ra mình. Mẹ tôi vẫn ngồi lặng thinh, vẻ mặt sửng sốt, lúc thì đăm đăm nhìn chồng, lúc lại như là không nhận ra người chồng yêu quý trong bộ quần áo rách mướp của kẻ ăn mày.

   Không nén nổi tức giận, tôi buột miệng trách sao mẹ lại tàn nhẫn như thế. Mẹ không hỏi han, cũng chẳng đến bên cha vồn vã trò chuyện. Tôi thầm nghĩ chắc trên thế gian chẳng có người vợ nào sắt đá đến nỗi chồng đi xa biền biệt hai mươi năm, trải qua biết bao gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng đến vậy.

   Mẹ tôi không giận mà dịu dàng đáp: Tê-lê-mác con ơi, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ cũng đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ củng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, vì cha mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.

   Nghe mẹ tôi nói vậy, cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi: Tê-lê-mác con! Đừng la rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thể nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới nên mẹ con khinh cha chưa nói: "Đích thị là chàng rồi. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xém nên xử trí tình huống thế nào cho ổn thỏa nhất. Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy củng phải rời bỏ cha mẹ, đất nước, trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành lũy bảo vệ đô thị này, giết các chàng trai của những gia đinh quyền quý nhất. Tình huống ấy cha khuyên con nên suy nghĩ.

   Tôi kính cẩn thưa rằng mọi việc xin cha cứ định liệu, vì xưa nay, cha vốn là người sáng sụốt. Tôi cũng hứa sẽ hết lòng phù tá cha tôi.

   Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp, nhảy múa ca hát để mọi người lầm tưởng rằng nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội, sắp đặt xong cha cũng đi tắm.

   Lát sau, từ trong phòng tắm bước ra, trông cha uy nghi, đẹp đẽ như một vị thần. Trở về chỗ cũ, cha nói với mẹ rằng: Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sất đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở! Rồi cha tôi bảo nhũ mẫu hãy kê cho ông một chiếc giường để ông ngủ một mình như bấy lâu nay vì trái tim trong ngực vợ ông được làm bằng sắt.

   Mẹ tôi thận trọng đáp: Khốn khổ! Tôi không có ý coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu! Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, ơ- ric-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.

   Mẹ tôi nói vậy là để thử cha tôi. Quả nhiên cha tôi bỗng giật mình hỏi ngay , nàng ơi. Nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ, ai đã xê dich giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Rồi cha tôi kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm của chiếc giường. Bí mật này ngoài cha mẹ của tôi ra chỉ có một thị tì của mẹ tôi biết được.

   Nghe vậy, mẹ tôi bủn rủn cả chân tay vì cha tôi đã tả đúng mười mươi sự thật. Mẹ liền chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ và hôn trán người chồng yêu quý mà nói rằng:

   Uy-lit-xơ Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta dược sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác... Giờ đây chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cổ của chúng ta. Vì vậy, chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.

   Giọng nói chân thành của mẹ tôi khiến cha tôi rất cảm động. Cha ôm lấy người vợ xiết bao yêu thương, người bạn đời chung thủy của mình mà khóc.

   Gặp lại chồng mình sau hơn hai mươi năm mòn mỏi chờ đợi, mẹ tôi sung sướng vô cùng! Mẹ nhìn ngắm cha không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của mẹ cứ ôm cổ cha không muốn rời.Cảnh tượng ấy khiến trái tim tôi - đứa con trai duy nhất của hai người, cứ thổn thức mãi không nguôi vì xúc động vì hạnh phúc. Từ đây tôi sẽ luôn được sống trong sự thương yêu che chở của mẹ, của cha.

Nguồn: vietjack