Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 14:28:16


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Lí Bạch nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, khoảng 1000 bài thơ. Tác phẩm của ông mang âm hưởng phóng khoáng, tự do, tiêu biểu cho hồn thơ lãng mạn. Tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng thể hiện tâm trạng của kẻ ở người đi. Qua đó bộc lộ tình cảm, tình bạn bè thắm thiết, sâu nặng.

     Đề tài tình bạn và đưa tiễn bạn đi xa là một đề tài tương đối phổ biến trong thơ ca cổ Trung Quốc. Tình bạn là niềm khao khát, là đối tượng tìm kiếm của con người xưa. Mỗi nhà thơ đều mong muốn tìm được người bạn của mình, hiểu mình, tri âm, tri kỉ của mình: Hoàng kim vạn lạng dung dị đắc/ Nhân sinh tri kỉ tối ngang tầm. Và đặc biệt Lí Bạch được coi là nhà thơ của tình bằng hữu, bởi vậy thơ viết về tình bạn trong ông rất nhiều. Chủ đề tống biệt: là đề tài để thể hiện tình bạn sâu sắc nhất trong sáng tác của ông.

     Tác phẩm mở ra không gian đưa tiễn tại lầu Hoàng Hạc: Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu. Hoàng Hạc lâu là điểm xuất phát của Mạnh Hạo Nhiên, cũng là nơi đưa tiễn bạn của Lí Bạch, nó nằm ở phía Tây Trung Quốc. Hoàng Hạc lâu là một thắng cảnh thần tiên với không gian tĩnh lặng, gắn với truyền thuyết Phí Văn Vi cưỡi hạc vàng. Còn Dương Châu: điểm đến của Mạnh Hạo Nhiên, nằm ở phía đông Trung Quốc - là nơi đô hội phồn hoa bậc nhất Trung Quốc đương thời. Đặt trong mối quan hệ tổng thể nối kết với nhau, các địa danh này tạo nên không gian rộng lớn, mênh mông.

     Thời gian đưa tiễn được ông đưa ra tương đối cụ thể: “Tam nguyệt” (tháng ba). Đó là khoảng thời gian tiết trời trong lành, ấm áp, tươi sáng. Và khung đưa tiễn trên sông nước được tác giả tái hiện rất đẹp: “yên hoa” (hoa khói). Hình ảnh này mang đến cho người đọc hai cách hiểu: Hoa khói là sương khói trên sông đang tạo thành tầng tầng lớp lớp những bông hoa khói. Nhưng cũng có thể hiểu những bông hoa của mùa xuân bên bờ sông đã bung nở, lại được đắm chìm trong sương khói tháng ba. Dù hiểu theo cách nào, khung cảnh đang bày ra cũng là khung cảnh diễm lệ, nên thơ.

     Lí Bạch dùng từ “Cố nhân” (bạn cũ) để xác lập mối quan hệ giữa người đi và kẻ ở. Người đi là Mạnh Hạo Nhiên, là bạn, là người Lí Bạch rất ngưỡng mộ cả về tài năng và nhân cách. Chữ “cố” cho thấy sự gắn bó bền chặt, thậm chí tri âm tri kỉ giữa hai người. Đồng thời chữ ấy cũng gợi một cảm giác hụt hẫng, tiếc nuối, nhớ thương trào dâng trong lòng tác giả.

     Đến câu thơ thứ ba, tâm trạng của người đưa tiễn đã thực sự rõ nét: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận”. Lí Bạch lặng dõi theo con thuyền chở bạn đến khi nó dần biến mất vào chân trời mênh mông, vô tận. Hình ảnh cánh buồm lẻ loi cô đơn nhìn bên ngoài có vẻ là hình ảnh phi lí. Vì Trường Giang là tuyến giao thông huyết mạch của Trung Quốc, bởi vậy chắc chắn thuyền bè lúc nào cũng đi lại tấp nập. Nhưng nếu lí giải theo tâm trạng của kẻ ở lại lặng nhìn người ra đi thì nó lại hoàn toàn hợp lí. Nhà thơ chỉ nhìn thấy một cánh buồm lẻ loi cô đơn trên dòng sông vì tấm lòng đã định hướng cho đôi mắt, chỉ dõi theo con thuyền của bạn nên không nhìn thấy những con thuyền khác. Người ở lại thấy lẻ loi, cô đơn, trống trải, hụt hẫng nên nghĩ rằng người bạn đang đi về nơi mĩ lệ, phồn hoa kia cũng cô đơn, lẻ loi như vậy. Con thuyền chở bạn nhưng chở theo cả nỗi lòng của người ở lại.

     Câu thơ thứ tư là câu thơ đã nghĩa, tác giả lấy cái có để nói cái không:

    Duy kiến trường giang thiên tế lưu.

     Cái hiện ra trước mắt ông là dòng sông mênh mông, chảy dài tới tận chân trời. Dòng sông ấy cũng đưa con thuyền, người bạn – tri âm tri kỉ của ông biến mất vào cõi xa xôi. Nhưng cái có ở đây chính là ánh mắt của người ở lại vẫn đau đáu dõi theo bóng bạn, bóng thuyền. Nhìn vào khoảng không chỉ còn thấy dòng sông bên trời, điều đó cho thấy sự trống trải, hẫng hụt, nỗi nhớ thương và tình cảm sâu nặng Lí Bạch dành cho Mạnh Hạo Nhiên.

     Bài thơ sử dụng pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa, điêu luyện, đằng sau bức tranh sông nước tháng ba hữu tình, đẹp đẽ là tâm trạng, nỗi luyến tiếc, nhớ thương của Lí Bạch khi tiễn bạn đi xa. Ngôn ngữ thơ vô cùng giản dị, hàm súc, cô đọng, giàu giá trị, ý nghĩa. Hình ảnh thơ tươi sáng, gợi cảm giàu giá trị biểu đạt.

     Với ngôn từ giản dị mà tinh tế, gợi tình gợi cảm, bài thơ đã thể hiện tình bạn chân thành, sâu sắc của Lí Bạch dành cho Mạnh Hạo Nhiên. Qua bài thơ ta cũng có thể thấy được ý nghĩa, vai trò quan trọng của tình bạn: tình bạn trong thời đại nào cũng vô cùng quý giá và đáng trân trọng.

Cảm nghĩ bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

Những cuộc tiễn đưa bao giờ cũng để lại trong lòng người đi, kẻ ở những ấn tượng và kỉ niệm khó quên. Trong xã hội xưa, khi điều kiện đi lại và trao đổi thư từ còn rất khó khăn, những cuộc chia tay càng dễ để lại cho đôi bên nhiều nỗi nhớ nhung, lo âu thấp thỏm. Đó là những lí do giải thích vì sao "thơ tống biệt", nói đầy đủ hơn là thơ "tống hành tặng biệt" (thơ tiễn chân và thơ từ biệt), chiếm một tỉ lệ khá cao trong văn học cổ điển. Lí Bạch là một người giao thiệp rất rộng, tính tình hồn nhiên cởi mở, suốt đời đi lại xê dịch nên tác phẩm viết về đề tài tiễn biệt chiếm tỉ lệ rất cao trong sự nghiệp thơ văn của ông. Trong đa số trường hợp, Lí Bạch xuất hiện với tư cách người đưa tiễn. Có đến 150 bài thơ mà đề thơ mở đầu bằng chữ "tống" hay "biệt".

   Trong hơn 150 bài văn thơ "tống hành tặng biệt" nói trên, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng được xem là tác phẩm hay nhất. Nêu bức tranh toàn cảnh là điều cần để thấy vị trí của bài thơ sẽ phân tích trong thư tống biệt của Lí Bạch:

    Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,

    Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.

    (Bạn từ lầu Hạc lên đường,

    Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng)

   Ở hai câu đầu, nhà thơ thường chỉ tường thuật một cách giản đơn hoàn cảnh hoặc nguyên do sự việc. Ngôn từ không chỉ bình dị tự nhiên mà lại còn sát hợp. Các dòng sông lớn ở Trung Quốc thường chảy theo hướng tây - đông, Hoàng Hạc lâu lại ở phía trên dòng nên đặt trạng ngữ "tây" trước động từ "từ", dùng động từ "há" trước Dương Châu là rất chuẩn xác. Động từ "từ" (từ giã, từ biệt) được sử dụng khá đắt, mang sắc thái biểu cảm và có tác dụng gợi cảm cao. Tác giả nói mình đưa tiễn "cố nhân" song không nói cố nhân từ giã mình mà lại nói "từ biệt lầu Hoàng Hạc". Như vậy, vừa kết hợp xác định địa điểm đưa tiễn, vừa đem lại cho bản thân hình ảnh lầu Hoàng Hạc một ý nghĩa hoán dụ, lại vừa gợi cho độc giả liên tưởng tới động tác, tâm tư của cả người đi, kẻ ở: sau khi tiễn bạn ở bến sông, có lẽ Lí Bạch đã vội dời chân lên tít lầu cao để tiếp tục ngóng theo và Mạnh Hạo Nhiên, sau khi lên thuyền, có lẽ cũng đang ngước trông lên lầu cao tiếp tục vẫy tay từ biệt.

   Hai câu đầu đã được người xưa gọi là "lệ cú" (câu đẹp), danh cú, song ai cũng thừa nhận hai câu sau mới là linh hồn của bài thơ. Hầu hết hai câu kết ở những bài thơ thuộc đề tài tống biệt của Lí Bạch đều dùng cảnh để biểu hiện tình (dụng cảnh kết tình) song thủ pháp rất đa dạng. So sánh, nhân cách hóa, đồng nhất tình và cảnh là những thủ pháp hay được sử dụng.

   Lần tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng, lòng nhà thơ cũng nao nức xao động, song rung động theo một kiểu khác và được biểu hiện hoàn toàn khác.

   Hai câu thơ mở đầu nói tới người ra đi (Mạnh Hạo Nhiên) và tường thuật sự việc (nêu lên đầy đủ các yếu tố của một cuộc đưa tiễn) song trong đó vẫn chứa đựng bao niềm lưu luyến của người đưa tiễn.

   Không bao lâu sau khi rời khỏi quê hương, Lí Bạch đã kết giao với Mạnh Hạo Nhiên, nhà thơ tiền bối, nhà thơ hơn mình đến hơn chục tuổi và bấy giờ danh tiếng đã lừng lẫy. Lí Bạch luôn nói về người bạn vong niên ấy với tất cả sự tôn kính và ngưỡng mộ:

    Ngô ái Mạnh phu tử

    Phong lưu thiên hạ văn.

    (Ta yêu Mạnh phu tử

    Đã nổi tiếng phong lưu khắp thiên hạ)

   Mối quan hệ đặc biệt thân tình ấy đã thể hiện đầy đủ, sinh động qua chỉ một từ "cố nhân". Lí Bạch là "chủ" tiễn khách song không phải là tiễn khách tại nhà mình, quê mình, thậm chí cũng không phải là nơi nhiệm sở như trường hợp Bạch Cư Dị ở Tì bà hành mà là tiễn khách nơi đất khách, ở một điểm dừng chân trên bước đường ngao du, hơn nữa lại là một thắng tích nổi tiếng gắn với những truyền thuyết từng làm xao động tâm hồn bao thế hệ. Cuộc tiễn chân diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trong không khí cực kì phồn vinh của xã hội Thịnh Đường. Bạn ra đi giữa một ngày xuân đẹp (tam nguyệt, yên hoa), bạn đi về Dương Châu, thành phố phồn hoa nổi tiếng nhất của cả vừng Giang Nam đương thời mà Lí Bạch trước đó đã từng đặt chân tới. Cho nên, qua lời thơ bề ngoài có vẻ như trung tính, đạm bạc, ta không chỉ thấy phút giây bịn rịn của buổi tiễn đưa mà còn thấy sự nao nức của người đưa tiễn.

    (Có phàm viễn ảnh bích không tận

    Duy kiến trường giang thiên tế lưu.)

    Bóng buồm đã khuất bầu không,

    Trông theo chỉ thấy bóng sông bên trời.

   Trong hai câu thơ này tình đã hòa vào cảnh. Vô tình của Lý Bạch ở lầu Hoàng Hạc lúc tiễn Mạnh Hạo Nhiên không gì có thể đưa ra so sánh, nó không thể so sánh với sông Trường Giang, không thể so sánh với bầu trời. Hay nói chuẩn xác hơn, cả sông Trường Giang, cả bầu trời đều không thể so sánh với nó mà nó hòa tan man mác vào cả bầu trời mông mênh, vào cả dòng sông bất tận, vào cả vũ trụ bao la vì cuối cùng cả bầu trời và dòng sông cũng đã hòa nhập làm một! Đáng chú ý là hai câu thơ đã vẽ ra một cảnh tượng mênh mông song đồng thời cũng khắc họa được những đường nét tinh tế. Từ bản thân "chiếc buồm cô độc", đến "bóng" của nó, đến bóng "xa" ... xa dần của nó, cho đến lúc nó mất hút vào bầu trời bát ngát là cả một quá trình, quá trình chuyển dịch ngày càng xa của con thuyền và quá trình ngóng trông theo vời vợi của cặp mắt người đưa tiễn. Thuyền đã mất hút song người tiễn đưa vẫn còn đứng đó, trơ vơ, đơn côi trên lầu Hoàng Hạc. Chiếc buồm hẳn là màu trắng, vệt trắng rồi điểm trắng ấy, dưới bầu trời biếc, trên dòng nước mùa xuân trong xanh hẳn là "mục tiêu" dễ thấy, dễ tăng cường thị lực Lí Bạch. Song quan trọng hơn là từ phía Lí Bạch, dù ở thời Thịnh Đường thuyền bè đi lại trên sông Trường Giang tấp nập như lá tre, tất cả thị lực của Lí Bạch chỉ đặt vào ở một điểm duy nhất đó mà thôi!

   Hai câu cuối, bên ngoài như vẫn tiếp tục nói về người ra đi song thực chất đã chuyển sang nói tâm tình người ở lại. Bên ngoài như là thơ tả cảnh thuần túy - mà xét về yêu cầu tả cảnh cũng đạt mức xuất sắc - song thực chất là tả tình.

   Hàm súc khêu gợi, ý tại ngôn ngoại, lời cạn ý sâu, lấy cảnh nói tình, từ nhỏ thấy lớn... tất cả những đặc trưng thi pháp ấy của thơ Đường nói chung, của thơ tuyệt cú nói riêng, chúng ta đều có thể tìm thấy sự thể hiện mẫu mực ở Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (...), của Lí Bạch.

Nguồn: vietjack