Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Viết bài tập làm văn số 6

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 28 tháng 10 2019 lúc 11:56:57


Mục lục
* * * * *

Tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng đối với mỗi người

 “Quê hương là gì hở mẹ

   Mà cô giáo dạy phải yêu

   Quê hương là gì hở mẹ

   Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”

   Mỗi người trong chúng ta khi sinh ra đều có một quê hương để mỗi khi nhớ đến chúng ta còn có những ký ức đẹp đẽ để trở về. Tình yêu quê hương luôn là những gì thân thương và bình dị nhất mỗi khi chúng ta nhớ về.

    Ai sinh ra cũng có những người thân yêu gọi là cha, là mẹ, là ông bà rồi anh em, bạn bè…Ai cũng có một nơi để lớn lên, một nơi để chập chững những bước đầu tiên, một nơi để đến trường…và nơi ấy để lại nỗi nhớ cho chúng ta mỗi lúc đi xa. Yêu quê hương cũng giống như tình yêu bạn dành cho những người thân thuộc của mình. Vậy tình yêu ấy như thế nào và biểu hiện ra sao? Tình yêu quê hương là tình cảm tự nhiên nhất, trong sáng nhất có trong mỗi con người, được hình thành từ khi nằm trong nôi đến khi chúng ta trưởng thành, đi xa học hành, lập nghiệp…Yêu quê hương là chúng ta muốn gắn bó với quê hương, muốn sống và làm việc chính nơi ấy, cống hiến sức lực của mình để xây dựng quê hương, góp những việc làm của mình để bảo vệ nét riêng của quê hương mình. Người yêu quê hương thật sự là người biết yêu cả những điều đơn xơ, nghèo nàn của quê hương chứ không phải chỉ nhớ những cái trù phú, giàu có, tình yêu ấy trở thành động lực thôi thúc họ cố gắng phấn đấu để giúp quê hương thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu.

    Tình yêu quê hương gắn liền với tình yêu tổ quốc, đấy là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp làm nên nhân cách của một con người, đấy cũng là truyền thống quý báu của dân tộc ta hàng nghìn năm qua. Khi mỗi chúng ta biết yêu quê hương của mình và cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể là chúng ta đã làm một việc ý nghĩa kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Biểu hiện của tình yêu quê hương khá phong phú. Mỗi con người có mỗi tính cách khác nhau thì tình yêu ở họ cũng không giống nhau. Có người yêu quê hương là ở ngay trên quê hương để làm việc, học tập. Có người lại tạm xa quê để mưu sinh nhưng vẫn thao thức khi mong muốn ngày về. Anh họa sĩ yêu quê hương mình sẽ vẽ lên những bức tranh đẹp về sông núi, con người, cánh đồng, lũ trẻ…Nhà thơ yêu quê hương viết những vần thơ ca ngợi quê mình. Anh kĩ sư yêu quê sẽ xây dựng những công trình mới cho quê hương thêm giàu đẹp. Bác nông dân yêu quê hương chăm chỉ hằng ngày bên ruộng nương đem đến cho bà con hạt gạo thơm nồng…

    Không chỉ thế, đôi khi yêu quê hương chỉ bắt nguồn từ những hành động nhỏ như các em học sinh nhặt rác trên đường, một người hảo tâm vận động bà con bắc chiếc cầu nhỏ qua sông để người dân qua lại dễ dàng hơn. Tôi có nghe câu chuyện về một cụ già đã không còn sức khỏe để làm đồng ruộng. Thấy đoạn đường phía trước nhà chỉ toàn là đất, trời mưa bùn lầy, xe cộ qua lại khó khăn, cụ ngày ngày nhặt từng hòn đá xếp cẩn thận trên mặt đường, để rồi cả tháng trời đoạn đường ấy cũng được lát bằng đá sạch sẽ. Việc làm ấy tuy nhỏ nhưng nó cũng là biểu hiện của tình yêu quê hương, yêu nơi mình sinh sống. Tình yêu quê hương không còn là những khái niệm trừu tượng, chung chung. Một khi chúng ta yêu từng mái nhà quen thuộc, yêu dòng sông xanh chảy qua trước nhà, yêu bụi chuối sau hè, yêu từng con đường ngoằn ngoèo đến trường, yêu cả đứa bạn hay trêu đùa, gây chuyện…là chúng ta yêu làng xóm, quê hương mình. Tất cả những gì thuộc về làng xóm, quê hương nơi mình sinh ra và lớn lên đều đáng để chúng ta yêu quý, nhớ nhung và mong ngóng. Ngày nay, khi xã hội phát triển, đất nước đổi mới, tình yêu gắn liền quê hương đất nước cũng phải phù hợp với cuộc sống mới. Trong bối cảnh hội nhập, yêu quê hương chính là yêu tiếng mẹ đẻ của mình, gìn giữ những nét văn hóa truyền thống của dân tộc trước những cơn sóng ngoại ập đến. Yêu quê hương không nhất thiết ở lại quê hương, những kiều bào Việt Nam ra nước ngoài vẫn hướng về dân tộc, đem tiếng nói, tình yêu của mình dạy cho con cháu, đem văn hóa của mình truyền bá ra ngoài thế giới. Thế nhưng vẫn có những người sống chỉ biết bản thân, chỉ vụ lợi và vì lợi ích trước mắt mà bán rẻ sản vật của quê hương. Họ phá rừng, bắt sản vật, họ đánh bắt cá trái phép. Họ xả nước thải bẩn vào dòng sông quê mình, họ đầu độc con người bằng trái cây chín vì thuốc, gạo giả, trứng giả, thịt giả, rau đầy hóa chất…Họ bán rẻ lương tâm cho những kẻ độc ác, bắt những đứa trẻ ngây thơ trên đất nước này đem bán đi để chúng mãi mãi xa gia đình, quê hương sống cực khổ hay là bán mạng nơi xứ người… Hành động của họ đáng lên án, đáng trừng trị. Với chúng ta, yêu quê hương của mình chính là yêu gia đình, yêu làng xóm nơi mình sinh ra và lớn lên, yêu mái trường, bạn bè, thầy cô và yêu cả những người ta quen biết. Chúng ta yêu quê hương là cố gắng học tập để có tri thức, sống tốt giúp đỡ mọi người, lên án những kẻ xấu, ủng hộ những người tốt.

    Khi đất nước ngày càng phát triển quá trình nông thôn mới cũng được đẩy mạnh hơn. Tình yêu quê hương được biểu hiện bằng hành động. Có rất nhiều người thành đạt xa quê đã có những đóng góp về tiền bạc và sức lực để xây dựng một quê hương ngày càng vững mạnh và phát triển hơn. Đây đều là những biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước với mong muốn quê hương mình ngày càng phát triển hơn. Yêu quê hương còn là trách nhiệm xây dựng quê hương ngày càng phát triển hơn. Ngày nay yêu quê hương không phải cứ phải cầm súng đánh giặc nữa, mà yêu quê hương chính là góp phần dựng xây quê hương phát triển ngày càng giàu mạnh hơn. Chúng ta là những thế hệ trẻ hãy góp phần công sức của mình để xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh hơn nữa.

Viết bài văn để thuyết phục các bạn chăm học hơn

 Việc học tập trong cuộc sống là vô cùng quan trọng đối với mỗi người. Ông bà, bố mẹ chúng ta thường nhắc nhở con cháu rằng: “Nếu khi còn trẻ ta không chịu học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích”. Đây là việc cần phải thực hiện ngay từ khi còn trẻ, chúng ta không được lơ là học tập mà trong suốt cuộc đời chúng ta cần phải học tập chăm chỉ, nghiên cứu khoa học để ứng dụng vào cuộc sống. Muốn tiếp thu được trí thức của nhân loại chỉ có một con đường duy nhất là học, học nữa, học mãi…

    Học tập là gì? Học tập là cho ta tri thức, cho ta những hiểu biết về thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh. Những hiểu biết về sinh học giúp con người nuôi trồng nông sản cho năng suất cao. Những hiểu biết về vật lí giúp ta ứng dụng nhiều thành tựu hiện đại vào trong cuộc sống, kiến thức giúp chúng ta sống hòa nhập vào cộng đồng biết cách cư xử có văn hóa, sống có trước, có sau, có tình, có nghĩa. Vây nên nếu không chịu khó học tập khi còn trẻ thì sẽ có rất nhiều cái hại cho mình về sau. Sẽ không có thời gian để bổ sung kiến thức, không có kiến thức để học tập cao hơn nữa. Bị tụt hậu so với sự phát triển của xã hội và sẽ ảnh hưởng lớn đến gia đình và xã hội sau này.

    Khi còn trẻ ta có rất nhiều điều kiện để học tập. Bây giờ, khi đầu óc còn thông minh, sáng rõ, còn đang phát triển, có thể tiếp thu được nhiều kiến thức. Kiến thức của nhân loại thì rộng lớn còn sự hiểu biết của mỗi người như giọt nước giữa biển cả mênh mông. Ở những người từ tuổi trưởng thành trở đi, trí não bị kém phát triển. Họ tiếp thu vấn đề rất chậm, lại nhanh quên. Bởi vậy khi tuổi trẻ qua đi, cũng là lúc khả năng học giảm đi rất nhiều. Như thế, nếu khi còn trẻ ta không học tập thì khi đến tuổi trưởng thành ta sẽ không còn điều kiện để học tập nữa. Những hạn chế đó dần đến những hạn chế về trí tuệ làm cho con người trở nên ngu dốt. Cái ngu dốt lại điều khiến ta đi theo đường vòng, làm cho ta không tiếp cận được với khoa học công nghệ tiên tiến, không hòa hợp mình với mọi người, biến mình trở thành người cổ hủ, lạc hậu và sẽ tự đào thải mình ra khỏi xã hội.

    Trong học tập, có một tấm gương rất gần gũi với chúng ta đó là anh Nguyễn Ngọc Kí. Nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Kí trước đây là một cậu bé bị liệt cả hai tay. Nhưng với tinh thần học hỏi và học tập chăm chỉ hằng ngày, Kí đã vượt qua bao đau đớn, bao nỗi mặc cảm, vật lộn với những cơn chuột rút, những lần thất bại. Giờ đây, chẳng những Nguyễn Ngọc Kí đã viết được bằng chân rất đẹp mà còn trở thành một nhà giáo ưu tú được học trò hết lòng yêu mến, kính trọng. Và thêm nữa là tấm gương Mạc Đĩnh Chi. Dù nhà nghèo, lại xấu xí, tưởng chẳng thể có được chút đóng góp cho đời. Vậy mà ông đã học tập chăm chỉ, học bằng chữ viết trên lá chuối, học bằng ánh sáng của trăng, của đom đóm, của những ánh lửa bốc lên từ đống lá khô… Cuối cùng ông đã trở thành một Trạng nguyên tài ba nổi tiếng. Ngược trở lại, những người lơ là học tập khi còn trẻ chẳng những không làm được việc gì có ích cho bản thân, cho xã hội mà còn phá hoại, kìm hãm sự phát triển chung của cộng đồng.

    Vậy nên nếu chúng ta lơ là học tập ngay từ bây giờ thì sau này rất dễ trở thành người bất tài, vô dụng, không biết lý lẽ, đúng sai, dễ bị cám dỗ. Là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hãy học tập chăm chỉ, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm học thật giỏi để khi lớn lên trở thành những công dân có ích, có thể nuôi sống chính bản thân mình, gia đình và phát triển xã hội.

Nghị luận về vấn đề trang phục học đường

Tục ngữ có câu “Cái răng, cái tóc là gốc con người”. Đầu tóc, vẻ bề ngoài, trang phục thể hiện được tính cách, văn hóa của một người. Chính vì vậy, việc lựa chọn trang phục đối với mỗi người là rất quan trọng, đặc biệt là trang phục của học sinh ngày nay.

    Trang phục bao gồm quần áo, giày dép, túi xách và những phụ kiện đi kèm như vòng tay, vòng cổ,… Trang phục của học sinh là bộ quần áo đồng phục khi đi học; là những bộ quần áo đơn giản, hợp lứa tuổi khi ở nhà, đi chơi. Khi đến trường, học sinh mặc những tấm áo trắng với phù hiệu của trường, mặc quần âu tím than, gợi một vẻ trong sáng hay học sinh khoác trên mình bộ áo dài duyên dáng, cũng có trường đồng phục là những chiếc váy xếp, quần tây. Tuy không quá rực rỡ, nổ bật nhưng quần áo đồng phục vẫn rất đẹp. Còn khi ở nhà, đi chơi, những chiếc quần ngố, áo phông, sơ mi lại rất phù hợp. Trang phục không cầu kì mà vẫn đẹp.

    Nhưng ngày nay, rất nhiều học sinh ăn mặc lố lăng, không phù hợp với lứa tuổi. Những bộ đồng phục giúp những học sinh dù giàu hay nghèo cũng trở nên bình đẳng. Thế nhưng, nhiều học sinh dù giàu hay nghèo vẫn muốn “chơi trội”, khi đến trường thì làm cho những bộ đồng phục trở nên “biến dị”. Những chiếc quần đồng phục được cắt sửa, bó sát vào cơ thể, những chiếc váy đồng phục thì được cắt cho thật ngắn. Rồi trên mặt những học sinh nào ấy nào là phấn son, tóc để xõa, lòa xòa, nhuộm xanh, nhuộm đỏ. Con trai thì vuốt tóc dựng ngược, trông như những cái đinh. Con gái đi giày cao gót, con trai đi dép tông, trông thật lố lăng, không giống như đang trong trường học,mà như một sàn diễn “thời trang”. Còn khi ở nhà, đi chơi, những bộ trang phục càng trở nên lố lăng hơn. Những nữ sinh “thùy mị” thì mặc những cái quần bó gấu, rách, hay những chiếc quần soóc siêu ngắn, những chiếc áo dây hở hang, trên mặt thì trang điểm thật đậm, chân đi những đôi guốc siêu cao. Còn nam sinh thì mặc những chiếc quần mài, rách, đôi khi còn có cả vết săm trên người. Chắc hẳn, nhìn những người như vậy, ít ai nghĩ họ là học sinh, là lứa tuổi trong sáng.

    Nguyên nhân của hiện tượng này thì có rất nhiều, công nghệ thông tin phát triển đồng nghĩa với việc con người tiếp xúc nhiều hơn với mạng thông tin. Học sinh cũng vậy, tiếp xúc với những điều tốt và cả xấu. Điều đó cũng ảnh hưởng không hề nhỏ tới cách ăn mặc của học sinh ngày nay. Có những cô cậu học trò muốn thể hiện mình đẹp, giỏi và muốn thể hiện “đẳng cấp”, họ đã đua đòi, học thói hư, tật xấu, ăn mặc sao cho thật mốt, sành điệu để trở thành “công chúa, hoàng tử” xinh đẹp. Họ không hiểu rằng ăn mặc như vậy tuy mốt nhưng rất lố lăng, không phù hợp với lứa tuổi. Có những người bị bạn bè lôi kéo, rủ rê nên đánh mất bản thân vào ăn chơi, lúc nào cũng đua đòi làm đẹp, sành điệu. Cách ăn mặc tưởng chừng là “đẹp” ấy lại đem lại rất nhiều tác hại… Trang phục phản ánh văn hóa, nhân cách của mỗi người. Đánh giá một người là học sinh ngoan giỏi đâu phải là đánh giá học lực mà đạo đức còn vô cùng quan trọng. Khi đến trường, mặc đồng phục chỉnh tề, trang nghiêm, đầu tóc gọn gàng; ở nhà, đi chơi ăn mặc đơn giản thì hẳn ai nhìn cũng thấy mến ta, có thiện cảm với ta, dù ta học lực chưa giỏi. Nhưng có người tuy học giỏi nhưng ăn mặc lố lăng, lôi thôi thì chẳng ai thấy thiện cảm, chỉ muốn tránh xa. Mình tưởng ăn mặc “hợp mốt” là người bị người ta chê, cảm thấy các cảm, không muốn giao lưu, tiếp xúc vơi mình. Vậy tại sao phải thật mốt? Nhìn học sinh như vậy, người ta sẽ đánh giá là kẻ có chữ nhưng không có văn hóa, hiểu thế nào. Hơn nữa, việc chạy theo mốt còn kém. Hết chạy theo mốt này, rồi mốt kia, biết bao nhiêu tiền cho vừa. Rồi việc chạy theo mốt khiến cho kinh tế gia đình tốn kém, tốn nhiều thời gian, không còn thời gian để học tập, việc học hành lơ là, giảm sút, vừa ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai của bản thân, vừa khiến bố mẹ lo lắng, đau lòng. Là học sinh, hành động đó không thể chấp nhận được. Có những người khi đã xinh đẹp và sành điệu rồi thì trở nên kiêu kì, lúc nào cũng coi thường, chê bai người khác, nhiều khi nói những lời khiến mình trở thành kẻ hợm hĩnh, khiến người khác tổn thương, tránh xa mình. Thậm chí khi hết tiền mua đồ họ lại nghĩ đến việc trộm cắp tiền. Là học sinh, hành động đó là không thể chấp nhận được.

    Mỗi chúng ta, là học sinh, đã có ý thức, suy nghĩ hiểu biết, phải luôn biết cách chọn trang phục. Trang phục phải phù hợp với lứa tuổi, thể hiện sự trong sáng của tuổi học trò và phải phù hợp với kinh tế gia đình. Mỗi người phải biết suy xét thật kĩ trước khi lựa chọn, mua trang phục. Học sinh không nên đua đòi, chạy theo mốt này, mốt nọ, phải có suy nghĩ đúng đắn về trang phục. Hơn nữa, nhà trường cần phải nghiêm ngặt hơn trong việc quản lí học sinh về trang phục, nhân cách. Gia đình cũng cần quan tâm hơn về cách ăn mặc của con cái. Hãy ăn mặc thật đơn giản, phù hợp mà lại thật đẹp, các bạn nhé!

    Mặc trang phục là để cho người khác ngắm, nhưng với cách ăn mặc lố lăng thì không ai muốn ngắm, đặc biệt là ở lứa tuổi học đường ngày nay. Tự tin, trong sáng và văn hóa là những gì ta nhận được khi ta ăn mặc thật đẹp, phù hợp với lứa tuổi. Hơn nữa, còn được mọi người yêu mến, ngắm nhìn. Chính vì vậy, mỗi học sinh chúng ta hãy luôn mặc thật phù hợp với mình, không nên đua đòi, chạy theo mốt mới.

4 bài văn mẫu Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ ...

Đối với một quốc gia, nhắc đến những nhà lãnh đạo đất nước là nhắc đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay tổ chức quân sự, văn hoá... Đứng trên cương vị một nhà lãnh đạo, trước hết họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, nhận định đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc.

   Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác thông hiểu kim cổ đông tây. Vị vua đầu tiên của triều Lý đã nhắc đến gương chuyển đô của vua Bàn Canh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những anh hùng hào kiệt, biết xả thân vì chủ tướng vì đất nước: Do Vu, Dự Nhượng, Kỉ Tín,... Có thể nói, biết "ôn cố" để "tri tân" là một trong những tố chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc "nhớ chuyện cũ", các nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện thiên năng "biết chuyện mới, chuyện đời nay" rất tài tình.

   Nhà Đinh, Lê "không noi theo dấu cũ Thương Chu" giữ nguyên vị trí kinh đô tại Hoa Lư mà đất Hoa Lư chỉ là chốn núi rừng hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến thời vận đất nước gặp nhiều trắc trở. Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó, hai nhà Đinh Lê triều vận ngắn ngủi, nhân dân gặp nhiều khó khăn.. Có thể nói, việc phê phán hai triều Đinh, Lê một phần lớn đã thể hiện tầm nhìn lãnh đạo của Lí Công Uẩn. Ông đã nhìn rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời bình, Hoa Lư không còn phù hợp với vị thế kinh đô nữa!

   Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ thực tế của việc giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần một và thái độ của chúng hiện nay, ông đã thấu rõ nguy cơ của một cuộc chiến chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông "uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt Tể phụ", "đi lại nghênh ngang", bắt dân ta cống nạp khoáng sản, vàng bạc.. Vậy rõ ràng, chúng chưa hề thấm thía bài học từ thất bại của cuộc xâm lược lần một và đang mưu mô cuộc chiến tranh ăn cướp lần hai.

   Giặc như vậy còn lực lượng quân sĩ ta thì sao? Vị nguyên soái lỗi lạc thêm một lần đau xót khi chứng kiến thực cảnh binh sĩ dưới quyền lơ là mất cảnh giác trước nguy cơ mất nước. Họ "hoặc thích chọi gà, hoặc mê tiếng hát", chơi cờ... Ông cay đắng chỉ ra một điều tất yếu là khi giặc đến những thú vui ấy chỉ trở thành tai họa "cựa gà trống không đâm thủng áo giáp của giặc", "tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai", "mẹo đánh cờ không thể dùng làm mưu lược nhà binh"...

   Từ việc nhìn nhận thấu suốt tình hình đất nước, các nhà lãnh đạo anh minh đều xác định rõ nhiệm vụ của quân và dân. Điều quan trọng là họ có những quyết định đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đến được bến bờ của sự bình yên và phát triển. Lí Thái Tổ xác định nhiệm vụ hiện tại là cần dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô đến đâu? "Thành Đại La.. là nơi trung tâm trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta chỉ có nơi đây là thánh địa". Từ việc có ý thức sâu sắc ưu thế của thành Đại La đối với việc phát triển đất nước, Lí Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn là thiên đô về mảnh đất văn hiến này.

   Trần Quốc Tuấn trên cương vị Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc đồng thời khuyên khích, động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Ông khuyên quân sĩ phải biết "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội", phải biết ra sức tập luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ vậy, ông còn soạn thảo "Binh thư yếu lược" làm sách lược cho binh sĩ tập luyện, rèn quân.

Bài văn mẫu 2

   Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hưởng quyết định đến vận mệnh đất nước. Đọc lại áng văn Chiếu dời đô của Lí Công uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự phát triển của dân tộc dù lúc đất nước lâm nguy hay thái bình, thịnh vượng.

   Đất nước có giặc, họa ngoại xâm đe dọa nền hòa bình của dân tộc cũng là lúc cần đến những vị tướng tài ba. Trần Quốc Tuấn ghi dấu trong lịch sử dân tộc và để lại ấn tượng sâu đậm về một võ tướng có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn gắn tên mình với Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử. Là người đã bẻ gẫy ý đồ xâm lược hung hăng của đế quốc Nguyên - Mông. Nhà quân sự kiệt xuất này có những chiến công hiển hách là nhờ ông quan tâm tới vận mệnh nước nhà bằng trái tim và ý chí của một anh hùng dân tộc. Cái tâm và cái tài của một vị tướng, một người con yêu nuớc, trung với vua được thể hiện rõ nét trong áng văn bất hủ "Hịch tướng sĩ". Đọc "Hịch tướng sĩ" ta ngỡ như nghe tiếng nói của cha ông, của non nước. Nó nồng nàn tinh thần yêu nước, biểu hiện lòng câm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù, không chỉ là của riêng Trần Hưng Đạo mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc yêu tự do và giàu tự trọng.

   Trước tai hoạ đang đến gần: quân Mông - Nguyên lăm le xâm lược lần thứ hai với tâm địa không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt mọc dưới vó ngựa của năm mươi vạn quân. Trần Quốc Tuấn đã viết "Hịch" để kêu gọi tướng sĩ một lòng đương đầu với cuộc chiến sống còn. Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm, những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc và những việc cần làm để chống giặc. Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau của dân tộc, nhục cái nhục quốc thể. Tác giả ngứa mắt khi thấy "sứ giặc đi lại nghênh ngang", ngứa tai khi chúng "uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình". Tác giả rất khinh bỉ, đã "vật hoá" chúng, gọi là "dê chó", là "hổđói". Ông mượn những tấm gương bậc nghĩa sĩ trung thần đã xả thân vì đất nước, vì nhân dân để khích lệ lòng tự trọng ở các tướng sĩ. Ông cũng biết lấy những suy nghĩ, việc làm của mình để khơi dậy lòng yêu nước của họ Viết cho tướng sĩ, nhưng ta thấy ông phơi trải tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo lắng đó được ông bày tỏ với binh sĩ: "Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù." Không chỉ căm thù giặc mà Trần Quốc Tuấn còn nguyện hi sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: "dẫu cho trâm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng." Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân.

   Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, tài năng quân sự, họ còn phải biết yêu thương, dạy bảo binh sĩ. Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình. Cũng chính nhờ tình cảm đó, ông đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ. Nhưng yêu thương, lo lắng cho binh sĩ không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ nhẹ nhàng mà là nghiêm khắc, quyết liệt phê phán những việc làm thái độ sai trái của họ: thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh Tổ quốc lâm nguy, quên mất trách nhiệm của mình đối với vận mệnh tổ quốc và nếu các tướng sĩ không nghe theo thì hiểm họa trước mắt thật đau xót: "Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào Những lời giáo huấn của ông đã thức tỉnh biết bao binh lính, giúp họ nhận thức hơn về độc lập dân tộc. Và hơn hết là chỉ ra những việc cần làm đó là hãy đề cao cảnh giác, đoàn kết trước nguy cơ mất nước. Ông đã thảo cuốn binh thư yếu lược để các tướng sĩ học theo, từ bỏ lối sống xa hoa, chuyên chăm vào việc rèn luyện võ nghệ để mọi người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ để có thể chiến thắng được kẻ thù xâm lược. Chăm học "Binh thư yếu lược" cũng là một cách rèn luyện để chiến thắng quân thù. Thật hả hê khi nghĩ đến giây phút chúng ta chiến thắng, chưa đánh giặc nhưng Trần Quốc Tuấn đã ca khúc khải hoàn "chẳng những thân ta kiếp này đắc chí mà đến các người trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền Lời tâm sự của Trần Quốc Tuấn với các tướng sĩ thật chân thành khiến các tướng sĩ một lòng khâm phục vị tướng tài vì xã tắc mà dám hi sinh, dám chiến đấu. Những con người ưu tú như Trần Quốc Tuấn quả là bậc danh tướng có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh điều mà Trần Quốc Tuấn đã nói. Cùng với sự đồng lòng toàn dân toàn quân, Việt Nam đã dành thắng lợi trước kẻ thù hùng mạnh nhất thời kì đó. Trong đó vai trò lãnh đạo của người lãnh đạo đóng vai trò quyết định, ông được nhân dân Việt Nam tôn thờ gọi là Đức Thánh Trân. Ta bắt gặp lại chí khí, tài năng của ông trong những nhà quân sự tài ba của thế kỉ XX đã làm nên huyền thoại Điện Biên Phủ, làm nên đại thắng Mùa xuân 1975.

   Đấy là trong thời chiến, ngay cả khi đất nước thái bình ta cũng không thể không cần một vị vua anh minh, hiền tài biết lo cho trăm họ. Và một trong những vị vua tài giỏi, lỗi lạc của đất nước là Lí Công uẩn, ông là người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lí ở nước ta. Ông là người thông minh, nhân ái, yêu nước thương dân, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Lí Công uẩn luôn mong muốn đất nước được thịnh trị, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Chính vì thế, ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Vì ông muốn đóng đô ởnơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu nên ông đã ban bố Chiếu dời đô vào năm 1010 để "trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân ", tỏ bày ý định rời kinh đô cũ từ Hoa Lư (Ninh Bình) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng, bằng, đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no, thanh bình, việc dời đô đã hợp với thiên thời địa lợi nhân hòa. Nơi ấy là thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Sau đó, ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc đại Việt. Cũng là khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí - triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vời vợi. Kinh đô Thăng Long quả là cái nối để lập nghiệp cho muôn đời là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời. Lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mỗi lần dời là một thử thách của dân tộc. Đó phải là quyết định của những đầu óc ưu tú nhất thời đại. Nói cách khác, không có ý chí quyết tâm lớn, không có tầm nhìn thấu cả tương lai thì Lí Công uẩn không thể nói đến chuyện dời đô.

   Mở đầu bài chiếu, nhà vua giải thích tại sao lại dời đô. Và bằng lập luận ngắn gọn nhưng sắc sảo, cùng với dẫn chừng thiết thực, nhà vua đã khẳng định: việc dời đô không phải là hành động, là ý muốn nhất thời của một người. Nó là biểu hiện cho xu thế tất yếu của lịch sử. Lí Công uẩn tuyệt vời là đã hiểu được khát vọng của nhân dân, khát vọng của lịch sử. Dân tộc Việt không chỉ là nước độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh, ông tâm đắc và rất vui vì tìm một nơi "trung tâm của trời đất", nơi có thể "rồng cuộn hổ ngồi", hào hứng nói tới cái nơi "đúng ngôi nam bắc đông tây" lại "nhìn sông dựa núi". Nơi đây là mảnh đất lí tưởng dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật rất mực phong phú tốt tươi." Thật cảm động trước tấm lòng của vị vua anh minh, quan tâm tới nhân dân, tìm chốn lập đô cũng vì dân, mong cho dân được hạnh phúc. Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt rất lớn. Nó đánh dấu sự tất thành của dân tộc Đại Việt. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên, đưa đất nước trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc.

   Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định với các quan trong triều ý định dời đô giàu sức thuyết phục. Những điều vua nói cách đây cả ngàn năm nhưng hôm nay nhìn lại vẫn giữ nguyên tính chân lí của nó. Trải qua bao thăng trầm, con rồng ấy vẫn bay lên bầu trời như thách thức sự vô hạn của thời gian. "Chiếu dời đô" là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Đó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lí Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình.

   Đọc lại áng văn "Chiếu dời đô "của Lí Công uẩn và bản hùng văn bất hủ muôn đời "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy sáng ngời nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong trường kì phát triển của dân tộc và thời nào cũng vậy dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam cần làm những nhà lãnh đạo giàu tâm và tài như vậy.

Bài văn mẫu 3

   Có thể nói dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đó là một truyền thống rất đáng tự hào. Đất nước sống đời thái bình, no ấm chính là nhờ tài đức của các vị vua, các vị tướng sĩ văn võ song toàn như Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ), Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương). Họ là những người lãnh đạo anh minh suốt đời vì vận mệnh của đất nước. Dựa vào văn bản "Chiếu dời đô" Lý Công Uẫn và văn bản "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều đó.

   Như chúng ta đã biết, Lý Công Uẩn vốn là người thông minh nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Vì thế, khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên.

   Lý Công Uẫn lên ngôi đã lập tức quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La, bởi nhà vua hiễu rõ Đại La chính là vùng đất mà nhân dân sẽ sống no ấm, đất nước được hưng thịnh đời đời. Lý Công Uẩn quyết định như thế không phải theo ý riêng mình mà chính là lo cho vận nước, hợp với lòng dân.

   Người viết "Chiếu dời đô" bày tỏ mục đích dời đô là: "vân mệnh trời", "theo ý dân", "thấy thuận thiên thì thay đổi", dời đến nơi "trung tâm trời đất", tiện hướng "nhìn sông dựa núi",... "nơi đây là thánh địa". Đọc văn bản "chiếu dời đô" ta cảm nhận Lý Công Uẩn không chỉ là 1 vị vua có tài mà còn có đức, ông xứng đáng là vị vua anh minh bậc tiên đế muôn đời. Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt bởi vì kinh đô Đại La đã vững mạnh suốt 200 năm, có nghĩa là nhân dân thái bình, no ấm trong suốt thời gian đó (kinh đô Đại La - Thăng Long - chính là thủ đô Hà Nội ngày nay, linh hồn của Việt Nam).

   Thời kì nhân dân Đại Việt phải đương đầu với quân Nguyên - Mông hung hãn, vị nguyên soái Trần Quốc Tuấn tức Hưng Đạo Vương đã ba lần cầm quân đánh bại quân xâm lược. Ông xứng đáng là một vị anh hùng của dân tộc.

   Trước năm 1285, Trần Quốc Tuấn đã viết bài "Hịch tướng sĩ" với mục đích kêu gọi tướng sĩ học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ đễ chuẩn bị đánh quân xâm lược. Bài Hịch có sức thuyết phục rất cao bởi lập luận sắc bén, có tình có lý.

   Trong bài Hịch Trần Quốc Tuấn sáng suốt nêu gương các trung thần nghĩa sĩ của Trung Quốc đễ đánh vào lòng tự tôn của các tướng sĩ dưới quyền. Ông nhắc lại cách đối xử thân tình của mình đến với họ, chỉ cho họ thấy tội ác của giặc, bày tỏ tấm lòng của mình trước vận mệnh của đất nước. Trần Quốc Tuấn đã phản ánh phê phán sự bàng quan vô trách nhiệm của các tướng sĩ. Vạch ra nguy cơ nước mất nhà tan, rồi lật ngược vấn đề: Nếu tướng sĩ lo học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ thì mọi người được sử sách lưu danh. Với cách lập luận như thế, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy, khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc của tất cả mọi người.

   Trần Quốc Tuấn vốn là con nhà võ nhưng thấu đáo sự học làm người, nắm rõ "tam cương, ngũ thường". Ông xứng đáng là 1 tấm gương để chiến sĩ noi theo. Trong kho tàng văn học nước nhà "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn xứng đáng là một "An thiên cỗ hùng văn", "tiếng kèn xung trận hào hùng", mãi mãi nhân dân thời Trần (thế kỉ 13) và mọi đời sau sẽ không bao giờ quên công đức của ông.

   Nói tóm lại, lịch sử đất nước Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ vào những vị vua, vị tướng anh minh như Lý Công Uẫn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,... Họ là tấm gương sáng ngời đễ đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta tưởng nhớ đến Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân giành độc lập ngày hôm nay. Chúng ta chắc chắn Bác đã noi gương những người đi trước. Sống xứng đáng với sự hi sinh của họ. Bác đã từng nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Và người cũng đã ân cần dạy tuổi trẻ "có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó".

Bài văn mẫu 4

   Trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, có biết bao nhiêu trang sử hào hùng, oanh liệt ghi lại những bước tiến, những cuộc khởi nghĩa lớn làm xoay chuyển vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Những xoay chuyển, thay đổi ấy đều được thực hiện bằng những con người sáng suốt, anh minh. Những con người ấy có phải chăng là những vị tướng giỏi, vua tài như Trần Quốc Tuấn, Lí Công Uẩn,...Tại sao tôi lại đề cập đến hai vị anh hùng dân tộc này? Vì qua hai áng văn chính luận "Chiếu dời đô", "Hịch tướng sĩ" đã làm rõ vai trò anh minh và tầm quan trọng của các vị ấy trong những lần thay đổi của đất nước.

   Khi được tiếp xúc với hai bài viết giàu ý nghĩ của họ, ta hiểu thêm sự anh minh của các đấng minh quân đời nhà Trần, Lí. Thoạt tiên khi đến với vấn đề trên ta cần hiểu rõ thế nào là người lãnh đạo anh minh? Người này chắc hẳn phải là người sáng suốt có tầm nhìn xa trông rộng, có công đức lớn lao đối với đất nước, dân tộc. Không chỉ vậy học còn đóng góp công sức không hề nhỏ trong việc đem lại tự do, hạnh phúc, cuộc sống ấm no, yên bình cho nhân dân. Nếu đã là những người như vậy thì việc họ để lại tiếng tăm bất hủ cho đời sau hay để lại những bài học vô giá cho hậu thế sau này trong sự nghiệp lớn của dân tộc liệu có còn là điều đáng ngạc nhiên hay không?

   Nhưng để làm được những công lao to lớn như vậy không phải là chuyện mà ai cũng có thể thực hiện vậy thì động lực nào mang lại cho họ ý nghĩ phải thực hiện những việc làm đó? Đó không phải là thứ gì khác mà là lòng yêu nước nồng nàn. Ta nhận ra điểm giống nhau thứ yếu của các bậc minh quân là tấm lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm trước vận mệnh sống còn của non sông. Ở Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn, ta nhận ra những điểm trên đây qua những ý tứ, nội dung cúng như từ ngữ, câu từ mà hai vị đã dùng trong áng văn của họ. "Chiếu dời đô" của vua Lí Công Uẩn, ông đã thể hiện tình yêu của mình ở cách nhìn nhận vị trí kinh đô của đất nước. Sự anh minh của Lí Công Uẩn cũng được thể hiện ở đây, ông nhận thấy kinh đô không còn phù hợp với tình thế đất nước lúc bấy giờ nên đã quyết định tìm đến một kinh đô mới phù hợp hơn mang lại cuộc sống tốt hơn cho nhân dân. Tất cả những nhìn nhận trên của ông đều xuất phát từ lòng yêu nước, lo lắng cho cuộc sống của nhân dân và vận mệnh đất nước. Đối với " Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ta dễ dàng nhận thấy hơn tình yêu nước của vị tướng được thể hiện qua những biểu hiện của chính Trần Quốc Tuấn khi đất nước lâm vào cảnh bị đô hộ: "Tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" những từ ngữ trên cho thấy sự đau xót, thương tiếc cho sự mất mát của quốc gia. Nhưng tình yêu của ông không chỉ dừng lại ở đây lòng yêu đất nước của ông đã biến thành sự căm ghét, căm phẫn, sôi sục ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược: "chỉ căm tức chưa xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù". Nhưng ông không phải là một người dân thường, ông là một vị tướng và ông có trách nghiệm giúp đất nước thoát khỏi cảnh đau thương. Ông đã viết bài hịch nhằm mục đích khích lệ ý thức trách nhiệm cũng như kêu gợi tình yêu quê hương đất nước trong các tướng sĩ của mình. Đó là cách ông thể hiện tình yêu quê hương, đất nước.

   Như ta đã thấy những việc họ đã làm đã mang lại cho đất nước những lợi ích không chỉ là tạm thời mà có ảnh hưởng to lớn đến tương lai của chúng ta. Vì vậy vai trò của những người anh minh sáng suốt như họ là vô cùng quan trong, cần thiết trong lịch sử dân tộc ta. Như Lí Công Uẩn vị vua đầu tiên của triều đình nhà Lí là người tiêu biểu trong lịch sử dân tộc ta, sự anh minh của ông thể hiện rất rõ trong việc dời kinh đô nước ta từ Hoa Lư về thành Đại La. Như đã nói vào thời Lí nước ta trở thành một nước độc lập có chủ quyền, phát triển lớn mạnh về mọi mặt, nên việc tiếp tục để kinh đô ở Hoa Lư là điều vô lí. Hoa Lư là một vùng rừng núi có địa thể hiểm trở chỉ phù hợp với tình hình đất nước chưa phồn thịnh và lớn mạnh. Nếu phát triển đất nước thì sẽ gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt như: giao thông, kinh tế, thương mại, ngoại giao, ...Đối lập với Hoa Lư thành Đại La lại là nơi "Ở vào trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, đất đai rộng mà bằng cao mà thoáng..." Hơn thế nữa "dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng hết mực phong phú tốt tươi". Chỉ mới nói đến thôi ta đã cảm nhận được cái ưu thế chỉ có một trên khắp đất nước của thành Đại La, nhà vua hướng tầm nhìn về nơi đây có thể nói là sự sáng suốt, anh minh đi thấu suốt lịch sử. Nhưng cũng thật khó khăn cho nhà vua khi việc chuyển dời kinh đô là chuyện trọng đại ảnh hưởng rất lớn đến đất nước sau này, ấy vậy mà bậc minh quân đã không ngần ngại với quyết định của mình và quyết định của ấy của ông đã điểm một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Quả nhiên sau khi kinh đô được chuyển dời thì nước ta từ bấy đến nay đất nước đã phát triển đi lên. Và vai trò của vua Lí Công Uẩn được tôn vinh nhiều hơn trong năm vừa qua khi nhân dân cả nước đã long trọng kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đánh dấu thời kì đã qua cũng như hứa hẹn một tương lai phồn thịnh hơn đang tới.

   Với những ý nghĩa và vai trò của "Chiếu dời đô" thế hệ đi sau chúng ta thật tự hào về một ông vua sáng suốt, anh minh mang lại cho chúng ta sự tự hào về, cuộc sống ấm no hạnh phúc hôm nay. Nhưng sự anh minh của một vị vua cũng không đủ đem lại độc lập tự do dân tộc mà phải nhờ đến những vị tướng tài như Trần Quốc Tuấn – Hưng Đạo vương đời nhà Trần, cũng với sự anh minh, sáng suốt của ông đã lãnh đạo nhân dân ba lần đánh tan quân Mông - Nguyên, làm xoay chuyển vận mệnh của cả một dân tộc. Trần Quốc Tuấn không chỉ anh minh trong đường lối đánh giặc mà ông còn là người mưu lược tài cao. Ông đã bày mưu kế đưa hai vị vua từ Thăng Long về Hoa Lư để bảo toàn lực lượng, vừa tranh sức mạnh mẽ của quân thù. Khi giặc sang ông tỏ thái độ rất căm tức: "Ngó thấy sữ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phu", ông dùng những từ ngữ, câu văn lên án gay gắt thái độ của giặc cũng như thể hiện nỗi căm giận của lòng ông. Ông lấy việc phải dùng nhạc thái thường để hầu giặc là điều vô cùng nhục nhã của bậc quân thần. Ông chỉ ra những điều làm cho lòng người sôi sục, tâm can nhục nhã khi không làm gì trước tình cảnh đất nước bị dày xéo, chà đạp. Đây chính là sự sáng suốt anh minh của vị tướng tài: ông đã thức tỉnh tướng sĩ đang ngủ say trong cuộc vui trước mắt (chọi gà, đánh bạc, vợ con, lo làm giàu, vườn ruộng, uống rượu, mê hát), lo toan chuyện nước nhà. Ông thấy được việc trên dưới đồng lòng cùng đồng tâm chống giặc sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn, cho dù binh to búa lớn cũng không phá vỡ được tinh thần yêu nước sục sôi, lòng căm thù sâu sắc. Chỉ với cái nhìn đúng đắn ấy của ông mà nước Việt ta bao lần thắng giặc với thế lớn, binh nhiều. Lúc bấy giờ ông trở thành người có vai trò quan trọng hơn cả với đất nước, là người có trách nhiệm tập hợp lòng dân, nghĩa sĩ. Và để làm được điều ấy ông đã viết bài "Hịch tướng sĩ" mở đầu cho công cuộc xây dựng tinh thần cho tướng sĩ. Bài hịch đã trở thành áng văn bất hủ, là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết tôn thất, làm cho ý chí chống giặc của nhân dân, tướng sĩ lên đến đỉnh điểm. Cũng như vạch ra con đường đi đúng đắn cho đất nước theo đường lối sáng suốt của Trần Quốc Tuấn.

   Qua những gì mà hai bậc hiền tài, anh minh của dân tộc đã làm cho đất nước thể hiện rõ ràng tầm quan trọng của họ trong những thời mốc điểm của đất nước. Ảnh hướng to lớn của những vị ấy không chỉ trong lúc bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến đời sau - chúng ta. Nếu không có những người lãnh đạo anh minh như thế thì liệu đất nước ta có còn tồn tại, nhân dân có được độc lập, tự do, hạnh phúc như hôm nay?

   Với riêng bản thân tôi cũng như nhiều người khác, lòng biết ơn đến những nhật vật anh minh như họ và tự hào bởi họ là những gì mà thế hệ sau như chúng ta luôn mong muốn được đền đáp ơn này. Những ngày kỉ niệm, những di tích lịch sử ghi lại dấu ấn của họ được chúng ta gìn giữ là điều thể hiện rõ nhất trong sự tôn kính, lòng biết ơn đối với những người lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn.

   Kết quả của sự lãnh đạo anh minh của các vị tướng tài, vua giỏi Trần Quốc Tuấn và Lí Công Uẩn là cuộc sống tốt đẹp của nhân dân ta từ thời ấy đến bây giờ. Một lần nữa xin khẳng định lại tầm quan trọng của những vị ấy là vô cùng to lớn đối với giang sơn, đất nước ta. Những vị ấy đã cố gắng gìn giữ và gây dựng đất nước thì con cháu ta phải cùng nhau dựng nước vững mạnh hơn.

Nguồn: vietjack