Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Nhớ rừng

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 28 tháng 10 2019 lúc 11:33:17


Mục lục
* * * * *

Dàn ý Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

A. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả tác phẩm: Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới giai đoạn đầu 1932 - 1945. Bài thơ “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm nổi tiếng, làm nên thành công cho hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn - Thế Lữ

- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ thông qua tâm trạng uất hận trước hoàn cảnh thực tại và nỗi nhớ thời quá khứ vàng son của con hổ để nói lên tâm trạng của chính những người dân đang chịu cảnh mất nước lúc bấy giờ.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm

- Sử dụng một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng chán nản, uất ức: “ căm hờn”, “nằm dài”, “chịu ngang hàng”, “bị làm trò”, “bị nhục nhằn”. Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.

Luận điểm 2: Quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của con hổ

- Nằm trong cũi sắt, con hổ nhớ về chốn sơn lâm – nơi nó từng ngự trị, đó là nơi có hàng ngàn cây đại thụ, có tiếng gió rít qua từng kẽ lá, tiếng của rừng già ngàn năm. Tất cả gợi ra một khu rừng hoang dã, hùng vĩ như vô cùng bí ẩn .

- Hình ảnh con hổ giữa chốn rừng xanh bạt ngàn được miêu tả qua một loạt từ ngữ miêu tả, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “vờn bóng”, “ mắt…quắc”…, thể hiện sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của loài chúa tể rừng xanh.

- Hình ảnh con hổ khi còn làm vua chốn rừng xanh được miêu tả qua nỗi nhớ về quá khứ: Một loạt những hình ảnh sóng đôi giữa rừng già và loài chúa tể sơn lâm: “Đêm vàng bên bờ suối” – “ ta say mồi…uống ánh trăng”, “ngày mưa” – “ ta lặng ngắm giang sơn”, “bình minh…nắng gội” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “chiều…sau rừng” – “ta đợi chết…”.

- Việc sử dụng 1 loạt câu hỏi tu từ, đặc biệt là câu cuối đoạn đã thể hiện tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung một quá khứ vàng son, một thời kì oanh liệt, tự do, ngạo nghễ làm chủ thiên nhiên núi rừng.

Luận điểm 3: Nỗi uất hận khi nghĩ về thực tại tầm thường, giả dối

- Quay trở về với hiện thực, con hổ với nỗi “uất hận ngàn thâu” đã vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố bịch của cuộc sống trước mắt: Ấy là những “cảnh sửa sang tầm thường, giả dối”, cái bắt chước đầy lố bích của thiên nhiên giả tạo, cố cho ra cái “vẻ hoang vu” nơi rừng thiêng sâu thẳm.

Luận điểm 4: Khao khát tự do sục sôi trong lòng con hổ

- Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.

⇒ Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.

Luận điểm 5: Nghệ thuật

- Thể thơ tự do hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ cảm xúc

- Ngôn ngữ độc đáo, có tính gợi hình, gợi cảm cao

- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…

- Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ - hiện thực – quá khứ…

C. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: “Nhớ rừng” không chỉ thành công ở nghệ thuật tinh tế, mà còn có giá trị lớn về nội dung, đại diện cho tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước.

- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Bài thơ góp phần to lớn vào sự thành công của phong trào Thơ mới.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Thế Lữ là một trong các cây bút tiên phong, mở đường cho thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển. Có thể nói ông là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho thơ mới, dựng lên nền thơ mới cho thi ca dân tộc ở ngay chặng đầu (1930-1935). Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế, đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ tha thiết, bi tráng. "Nhớ rừng" là một trong những bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm được sáng tác năm 1934, in trong tập "Mấy vần thơ" (1935), tác giả đã mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước. Bộc lộ niềm khát vọng được khẳng định cái tôi của chính mình và được phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, đất nước tự do. Đó cũng là lời tâm sự chung của những chàng thanh niên trí thức sống trong hoàn cảnh mất nước thời kì đó.

    Trước hết, với bài thơ "Nhớ rừng", Thế Lữ đã xây dựng thành công hình tượng con hổ bị sa cơ lỡ vận, mang vẻ đẹp của người anh hùng chiến bại. Đoạn thơ mở đầu là nỗi đau bi kịch của con hổ ngay trong thì hiện tại:

   Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

   Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

   Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ

   Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

   Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

   Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

   Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

   Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

   Nỗi căm hờn là nỗi đau đớn, uất ức, căm phẫn vốn vô hình nhưng qua động từ "gậm" đã trở nên có hình có khối, như có thể nhìn thấy cụ thể. Nỗi căm hờn ấy không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc mà nó luôn âm ỉ, kế đọng từ rất lâu rồi. Đó là nỗi căm hờn của sự cầm tù "trong cũi sắt" đến mất quyền tự do, chỉ biết "nằm dài" ngao ngắn, tuyệt vọng nhìn ngày tháng trôi qua dần dần mà bất lực. Nỗi đau bi kịch đó của chúa sơn lâm càng được đẩy lên cao trào hơn khi phải sống chung với "bọn gấu dở hơi" và trở thành một món đồ chơi lạ mắt cho "lũ người ngạo mạn". Hiện tại là thế: sa cơ, tù hãm, bất lực nhưng hổ chẳng bao giờ quên được những năm tháng của thuở trời đất dọc ngang, ngang dọc tung hoành bốn bể năm nào:

   Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

   Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

   Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

   Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

   Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

   Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,

   Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

   Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

   Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

   Là khiến cho mọi vật đều im hơi

   Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

   Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

   Nỗi nhớ đã khơi nguồn cho những cảnh núi rừng bí ẩn lần lượt hiện ra thật tráng lệ, hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình, nên thơ. Đó là cảnh "bóng cả cây ngà", "tiếng gió gào ngàn", "giọng nguồn hét núi". Chúa sơn lâm cứ say sưa nhớ lại những kỉ niệm rực lửa, huy hoàng, tự hào và kiêu hãnh khi ấy. Những động từ miêu tả động tác như "bước, vờn, lượn, quắc" kết hợp với hệ thống những từ láy giàu tính chất tạo hình "nhịp nhàng, dõng dạc, âm thầm" đã tạo nên một vị chúa tể rừng xanh vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa tự tin, đàng hoàng, lại vừa oai phong lẫm liệt, dũng mãnh phi thường. Và thời gian đó là những ngày tháng đẹp nhất:

   Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

   Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

   Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

   Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

   Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

   Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

   Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

   Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

   Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

   -Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

   Nỗi nhớ cồn cào da diết cứ dẫn dắt mãnh hổ trở về với quá khứ xa xăm của một thời vang bóng, đó là những đêm trăng vàng bên bờ suối tận hưởng, thả hồn uống ánh trăng đêm; những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, lặng lẽ ngắm mưa rừng dữ dội; những ngày yên bình, thanh thản trong ánh nắng bình minh ngập tràn sắc nắng hay là lúc hả hê, vui thích trong những chiếm lợi phẩm và đợi mặt trời lặn xuống để làm chủ đêm đen. Nghệ thuật điệp cấu trúc (điệp ngữ) kết hợp với câu hỏi tu từ đã xen vừa diễn tả dòng hồi tưởng miên man không dứt; lại vừa thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, xen lẫn niềm tiếc nuối xót xa về những ngày tháng được tung hoành, tự do. Vì thế, câu thơ cuối đoạn cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán, tuyệt vọng:

   "-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

    Trở về với thực tại tầm thường, giả dối, nỗi chán ngắn, sự khinh bỉ của "chúa tể muôn loài" đã tăng lên đến cao độ. Đó toàn là những khung cảnh giả dối, tầm thường:

   Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

   Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

   Len dưới nách những mô gò thấp kém;

   Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

   Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

   Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

   Vì thế, đoạn thơ cuối là lời nhắn gửi bi tráng của con hổ với chốn nước non hùng vĩ. Một mặt thể hiện niềm xót xa về quá khứ; một mặt khẳng định tâm thế cường tráng, mạnh mẽ của mãnh hổ không gì có thể khuất phục được, ngay cả khi đã bị giam cầm trong cũi sắt:

   Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

   Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

   Nơi thênh thanh ta vùng vẫy ngày xưa

   Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

   Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

   Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn.

   Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

   -Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

    Xét về hình thức nghệ thuật của bài thơ "Nhớ rừng", cái "mới" của thi phẩm trước hết được thể hiện qua thể thơ tám chữ, gieo vần liền (hai câu liền nhau có vần với nhau), vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp, đều đặn. Kế thừa thể hát nói truyền thống nhưng "Nhớ rừng" với thể tám chữ đã được dùng linh hoạt, tự do hơn về cách ngắt nhịp, phá bỏ hoàn toàn những qui định niêm luật vận đối cứng nhắc (khi ngắn, khi dài, khi anh, khi chậm...). Ngoài ra ngôn ngữ hình ảnh thơ không còn mang tính ước lệ nữa, thay vào đó rất sinh động, sáng tạo, giàu tính chất trữ tình, biểu cảm. Bên cạnh đó, bài thơ còn sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ... Tất cả điều đó đã tạo nên tính nhạc điệu và chất họa cho bài thơ.

    Xét về nội dung, bài thơ "Nhớ rừng" đã mượn lời con hổ ở vườn bách thảo để thể hiện kín đáo tâm sự con người thời kì đó. Bài thơ có lời đề từ là "Lời con hổ ở vườn bách thú"những đó thực chất là lời tâm sự, khát vọng tự do mạnh mẽ của thế hệ thanh niên sống trong hoàn cảnh mất nước. Đó là "niềm uất hận ngàn thâu" đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt – một hiện thức khiến con người thấy chán ghét, muốn từ bỏ, thoát ly. Đi liền với sự chối bỏ là niềm khát khao mạnh mẽ được đổi thay, được khẳng định giá trị bản thân mình trong một xã hội bình yên, phẳng lặng. Vì thế, bài thơ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng con hổ bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của mình mà còn gửi gắm trong đó sự lên tiếng của cá nhân, đòi giải phóng cái tôi người nghệ sĩ và mong ước đất nước được hòa bình, tự do, thoát khỏi cảnh nô lệ, ngục tù. Cho nên, có thể nói, bài thơ đã bộc lộ kín đáo, thấm thía tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Thế Lữ.

   Tóm lại, qua bài thơ "Nhớ rừng", chúng ta thấy được sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ, góp phần khẳng định chỗ đứng vững chắc và sự toàn thắng của thơ mới trên văn đàn, đánh dấu một bước ngoặt lớn của thi ca Việt Nam đương đại. Bài thơ đã dựng lên thành công hình tượng chúa sơn lâm thật đẹp, thật bi tráng mang nỗi niềm tâm sự của con người. Vướt thoát khuôn khổ câu chữ trong thơ, bài thơ đã thể hiện sâu sắc thấm thía tình yêu quê hương đất nước của lớp thanh niên đương thời.

Dàn ý Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

A. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu của Thế Lữ - một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới.

- Khái quát tâm trạng: Trong tác phẩm, trung tâm chính là tâm trạng con hổ trước thực tại tầm thường và quá khứ vàng son, qua đó nói về chính những con người Việt Nam đang trong hoàn cảnh mất nước.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Tâm trạng tủi nhục, phẫn uất, chán ghét khung cảnh thực tại.

- Tác giả diễn tả trực tiếp tâm trạng con hổ bằng một loạt động từ mạnh:

   + “Gậm một khối căm hờn”: Động từ “gậm” gợi ra sự gặm nhấm dần dần, từ từ từng chút một, không phải là một nỗi căm hờn mà là một “khối”. Câu thơ gợi ra tâm trạng tù túng, bế tắc của con hổ khi bị giam cầm.

   + Một loạt các động từ mạnh thể hiện sự khinh thường: “khinh”, “ngạo mạn”, “ngẩn ngơ”, “ giương mắt”,…

   + Những từ ngữ diễn tả trực tiếp tâm trạng: “nhục nhằn”, “làm trò”, “chịu”.

⇒ Tâm trạng phẫn uất, chán ghét đến tột đỉnh khi bị giam cầm, bị coi làm trò đùa cho lũ người nhỏ bé tầm thường của con hổ - biểu tượng của rừng xanh oai linh.

- Tâm trạng chán ghét, khinh thường sự tầm thường, giả dối của thực tại:

   + “ôm nỗi uất hận ngàn thâu”: Tâm trạng phẫn uất, căm hận của con hổ như được đẩy lên đến đỉnh điểm khi chứng kiến những cảnh tầm thường, giả dối trước mắt: “ghét những cảnh…”

Luận điểm 2: Tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung khi nhớ về quá khứ vàng son ở chốn sơn lâm

- Tiếp tục sử dụng từ ngữ bộc lộ trực tiếp tâm trạng: “tình thương nỗi nhớ”, “ngày xưa”, “nhớ”

- Hình ảnh con hổ khi còn là chúa tể rừng xanh được khắc họa lại bằng một loạt những hình ảnh cụ thể, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “ vờn bóng”, “quắc”, thể hiện sự uy nghiêm, lẫm liệt, xứng đáng là “chúa tể cả muôn loài”.

- Nhớ về quá khứ, con hổ nhớ về những kỉ niệm chốn rừng xanh với tâm trạng nuối tiếc.

   + Điệp từ “nào đâu”, điệp cấu trúc kết hợp với một loạt câu hỏi tu từ cùng các hình ảnh có giá trị gợi cảm cao: “những đêm vàng” – “ta say mồi”, “những ngày mưa” – “ta lặng ngắm”, “ những bình minh” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “những chiều” – “ta đợi chết…”.

   + Câu cảm thán cuối đoạn “than ôi!” kết hợp với câu hỏi tu từ “thời oanh liệt nay còn đâu?” như một lời than thở, tiếc nuối cho chính số phận mình.

Luận điểm 3: Khao khát được tự do của con hổ

- Sống trong cũi sắt, chứng kiến những điều chán ghét tầm thường, con hổ khao khát được trở về với đại ngàn sâu thẳm, trở về với tự do, với thân phận đáng có của nó. Dù chỉ là trong giấc mộng, con hổ cũng muốn đưa hồn mình trở về với núi non

   + Câu cảm thán cuối bài vừa thể hiện sự tiếc nuối, vừa thể hiện khao khát tự do mãnh liệt đang bùng cháy trong lòng con hổ.

- Thông qua tâm trạng con hổ, tác giả muốn nói về tâm trạng của hàng nghìn thanh niên yêu nước Việt Nam đang phải chịu sự kìm kẹp, giam lỏng của bọn thực dân, đó là tâm trạng khinh thường, chán ghét sự giả dối, xảo trá của giặc, đó là nỗi nhớ, niềm tự hào về quá khứ, về độc lập dân tộc, và là khao khát tự do, phá nát cái gọng kìm của bọn thực dân.

C. Kết bài:

- Khái quát lại tâm trạng con hổ: Nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.

- Liên hệ, đánh giá nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Thế Lữ

Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

 Thế Lữ là ngôi sao sáng nhất của phong trào "Thơ mới" (1932 - 1945). Thơ ông tràn đầy những ước mơ. Nhớ rừng là tâm sự của một con hổ sa cơ bị nhục nhằn tù hãm, là tâm sự của cả một thế hệ trí thức trẻ tuổi trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ nhanh chóng được đón nhận rất rộng rãi, chứng tỏ có sức đồng cảm mãnh liệt. Tìm hiểu tâm trạng của con hố, ta sẽ hiểu thêm tâm trạng của một lớp người đương thời vậy.

   Trước hết là tâm trạng uất hận của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú. Trong cái dáng dấp nằm dài hiền lành kia là một nỗi chán ngán đầy ẩn nhẫn trông ngày tháng dần qua. Nhưng sự thực đã được giới thiệu từ đầu: gậm một khối căm hờn... Hóa ra, đổ là bi kịch của chúa sơn lâm — chúa tể của đại ngàn - vốn lừng lẫy; vốn là oai linh rừng thẳm đang sa cơ, nhục nhằn tù hăm, mất tự do. Bài thơ được mở đầu với đoạn:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt 
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi 
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

   Nghe thế, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng chúa sơn lâm đã bị khuất phục, đã trở nên hiền lành, không còn lồng lộn dữ tợn nữa, nêu chỉ thoáng qua bề ngoài của con hổ:

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.

   Nào ai biết hổ đang "Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt", "gậm" không phải là nhai ngấu nghiến mà là nghiến từ từ cho đến lúc nát ra. Sắt đâu phải dễ tan vỡ, khối căm hờn cũng không dễ nuốt trôi! Hổ hẳn là muốn phá tan mọi thứ đang vây hãm mình vì nỗi hận đang lên đến cao độ. Bằng cách đó con hổ muốn phá tan tất cả mọi thứ vì nỗi căm tức trong nó đang đến tột đỉnh. Nó căm tức vì bị giam cầm thì ít mà bị xếp ngang hàng với "bọn gấu dở hơi", "cặp báo vô tư lự" thì nhiều. Tâm trạng nó lúc này còn là cảm thấy vô cùng nhục nhã với hoàn cảnh nó đang phải chịu đựng. Nhục nhã vì nó đường hoang là chúa sơn lâm vậy mà lại bị tù hãm để "làm trò lạ mắt thứ đồ cho người ngạo mạn, ngẩn ngơ" là đối tượng trước tiên mà nó hết sức khinh ghét. Với biện pháp nhân hóa, Thế Lữ đã làm rõ tâm trạng của con hổ khi ở trong tù, nổi bật là sự căm hờn uất hận và nỗi nhục nhã mà nó phải chịu đựng. Cay đắng hơn, từ địa vị chúa tể, giờ đây chỉ còn ở vị trí thấp hèn đồ chơi ngang hàng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự. Thật là nhục nhã! Thật là căm hận! Đại từ "ta" biểu hiện sắc thái kiêu hãnh, tự cao, tự đại, biết rõ giá trị của mình trong khi bọn tiểu nhân đang giễu cợt sự sa cơ của "bậc anh hùng". Chính vì thế mà nỗi uất ức, căm hờn ngày càng đè nặng lên tâm hồn chúa sơn lâm.

   Tiếp theo là nỗi khao khát tự do mãnh liệt thể hiện qua những hoài niệm về một núi rừng kì vĩ cùng sức mạnh vô biên của chúa tể rừng xanh. Từ ngục tù cũi sắt, con hổ đang thả hồn theo nỗi nhớ quê hương, nhớ núi rừng xa xưa với niềm nhớ tiếc:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi 
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

   Cảnh rừng thời hổ làm chúa sơn lâm hiện ra sao mà uy linh, sao mà hùng tráng! Nó vừa có vẻ bí hiểm, hùng vĩ cỗ kính và vừa rất dữ dội khiến người ta phải ghê sợ đến thế. Chỉ bằng một câu, cùng biện pháp so sánh, tác giả đã cho ta thấy vẻ đường hoàng dõng dạc, oai vệ của hổ:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng 
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

   Cái bước chân lên đỏ, cái thân hình uốn lượn đó chỉ có được ở chúa sơn lâm, cái uốn lượn vừa mềm mại, vừa nhanh lại vừa khỏe, ít thấy loài nào có thể làm được. Chắc hẳn rằng con hổ đang rất kiêu hãnh khi " chân lên dõng dạc, đường hoàng" khi "lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng", bời nó biết nó là chúa tể của muôn loài, giữa chốn "thảo hoa không tên, không tuồi". Trong niềm căm uất và đau đớn ấy, chúa sơn lâm đang nhớ về cuộc đời tự do, oanh liệt ngày xưa, những ngày xưa thật rực rỡ:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.

   Tình thương, nỗi nhớ, xúc cảm ấy nối hai bờ không gian - thời gian, gắn nên quá khứ và hiện tại. Từ không gian là cũi sắt, hổ nhớ về không gian bao la rộng rãi và tự do, không gian rừng thẳm. Thiên nhiên đó kì vĩ phóng khoáng, đổi thay lên tục và vô tận trong bình minh, chiều tà và đêm xuống. Cảnh rừng hoang vu bóng cả, cây già chứa đựng những điều bí mật: hang tối, rừng sâu, thảo hoa không tên, không tuổi, hòa với những âm thanh man dại gió gào ngàn, nguồn hét núi cùng những màu sắc rực rỡ trong buổi nắng mai vàng, chiều đỏ tía và đêm đen huyền bí âm u. Phải chăng đó là bức tranh tứ bình với các cảnh đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh, chiều đỏ, cả một không khí vừa dữ dội vừa oai nghiêm của rừng thẳm. Bút pháp lãng mạn thiên về cái cao cả, cái phi thường, tạo dựng một hình ảnh thiên nhiên thật kì vĩ. Đó là thiên nhiên trong cõi nhớ của hùm thiêng.

   Hổ kiêu hãnh:

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

   Trên cái nền thiên nhiên ấy, hổ hiện ra trong tư thế thật oai phong. Giữa khúc trường ca dữ dội của rừng thiêng tấu lên, hổ bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng. Nói về nỗi nhớ rừng của con hổ nếu dừng ở đây cũng được,nhưng với trí tưởng tượng phong phú và con mắt nhìn của một họa sĩ tài ba, tác giả còn vẽ nêm bức tranh bằng thơ giàu hình ảnh và tràn đầy màu sắc:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn 
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rùng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

   Chúa sơn lâm đang chế ngự thiên nhiên với tâm trạng tự hào, kiêu hãnh, nó chinh phục thiên nhiên, nhưng không phá phách, làm hư hại thiên nhiên. Bởi "những đêm vàng bên bờ suối" mang một vẻ huyền ảo, bởi "những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn" làm cho núi rừng như được thay áo mới, bởi cảnh thiên nhiên rất sống động vào buổi bình minh nhờ tiếng chim ca. Và:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

   Có thể nói rằng hình ảnh "những chiều lênh láng máu sau rừng" và "ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt" là đẹp nhất, dữ dội nhất và tự hào nhất của chúa sơn lâm. Mặt trời là sự sống của muôn loài mà con hổ cũng coi khinh. Đó là thời điểm huy hoàng nhất, rực rỡ nhất, sự chiến thắng huy hoàng của chúa sơn lâm. Điệp ngữ "đâu" càng nhấn mạnh, xoáy sâu vào nỗi nhớ rừng của con hổ.

   Vừa là một chúa tể, hổ còn như một thi sĩ mơ màng đứng uống ánh trăng tan, như nhà hiền triết lặng ngắm giang san trong cơn mưa chuyển bón phương ngàn, thành bậc đế vương có chim ca giấc ngủ ta tưng bừng. Hơn thế nữa, một vị chúa tể tàn bạo làm chủ bóng tối chiếm lấy riêng phần bí mật. Những hình ảnh và động tác đầy ấn tượng miêu tả cuộc sông tự do, thơ mộng và dữ dộiđầy quyền uy. Đấy là cảnh ngắm mưa, ngắm trăng, trời đất, thưởng thức đêm vàng trong im lặng kì ảo, quyến rũ, tận hưởng ban mai cây xanh nắng gội, cảnh! Đợi chiều xuống với hoàng hôn đỏ rực. Qua cảm nhận của chúa sơn lâm, ánh mặt trời hoàng hôn giống hệt sắc máu lênh láng:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

   Cùng trong hoài niệm của chúa sơn Lâm, chỉ có một mặt trời xứng đáng có! Quyền uy ngang tầm với hổ. Thế mà chiều đến, mặt trơi kia cũng dần đợi chết, cũng gục ngã, lênh láng máu sau rừng. Mặt trời chết, mặt trời cũng như một! Con thú hấp hối sau một cuộc đọ sức ghê gớm nhất, gay go nhất. Cách nhìn, cách nghĩ của chúa sơn lâm thật ngạo mạn. Mặt trời cũng không còn tồn tại, không còn giữ được ngôi vị cao cả. Khi màn đểm xuống quyền uy của chúa sơn lâm là bao trùm vũ trụ. Hổ vờn bóng, giẫm nát lá gai, cỏ sắc là đỉnh điểm của quyền uy mãnh hổ về đêm - kẻ thống trị cả vũ trụ.

   Tất cả đều trong hoài niệm của hổ: rừng thiêng đang hòa tấu một khúc nhạc dữ dội để tôn vinh sức mạnh của chúa sơn lâm. Say sưa trong bản nhạc ca ngợi quyền uy và tự do trong dĩ vãng, mãnh hổ bỗng sực tỉnh và gào thét xót xa! Những chiến công của hổ chợt qua trong tâm trạng đầy thất vọng và nuối tiếc. Nó thốt lên lời ai oán: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!". Cả câu phần lớn sử dụng thanh bằng làm âm hưởng câu thơ từ không khí hào hùng của những chiến thắng huy hoàng bỗng trở nên buồn hơn. Con hổ nhớ về quá khứ vàng son của mình với tâm trạng tự hào kiêu hãnh thì nó lại nhìn vào hiện thực với một sự uất hận căm tức. Nó căm ghét:

"Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối."
Với: "hoa chăm, cỏ xén, cây trồng".

   Tất cả mọi thứ đều do bàn tay con người. Đó là sự giả tạo, bắt chước vẻ đẹp của tự nhiên một cách vụng về. Đó không phải là cảnh rừng chân thật, tự nhiên và cao cả. Qua đó ta hiểu được tâm trạng của con hổ lúc này là khao khát một cái gì đó chân thật, tự nhiên, cao cả.

   Khinh bạc căm tức với hiện tại, nó lại khao khát trở về với "núi non hùng vĩ ", "nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa" trở về với cuộc sống tự do. Nhưng đang bị giam cầm trong cũi sắt, chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo "giấc mộng ngàn" để được sống lại những giờ phút huy hoàng thuở xưa, cố xua đi những ngày ảm đạm, "ngao ngán" của mình.

   Nghệ thuật tương phản làm nổi bật lời thét gào ngân vang xót xa. Từ đỉnh cao huy hoàng của tự do, quyền uy chúa tể, hổ sực tỉnh nhớ tới thân phận tù đầy của mình. Các từ nghi vấn sử dụng liên tiếp nào đâu, đâu những... bộc lộ niềm hoài niệm đau đớn tiếc nuối, uất hận. Tâm trạng cũng trở nên phức tạp, đa dạng: nhớ thương, đau buồn, uất hận.

   Cuối cùng là tâm trạng u uất, chán ngán trước sự giả tạo, đơn điệu của cảnh tù hãm. Càng thương nhớ vẻ đẹp cao cả dữ dội của rừng xanh tự do bao nhiêu, chúa sơn lâm càng căm hờn, chán ngán trước cảnh giả tạo, đơn điệu, tù túng ở vườn bách thú bấy nhiêu:

"Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cò xén, lối phẳng, cây trồng 
Dài nước đen giả suối chẳng thông dòng 
Len dưới nách những mô gò thấp kém 
Dăm vầng lá hiền lành không bí hiểm.
Cũng học đòi bẳt chước vồ hoang vu...."

   Tâm trạng của chúa sơn Lâm cũng là tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, dứt khoát không chấp nhận cái tầm thường, cái vô nghĩa, sự bắt chước giả tạo. Càng ghét cay, ghét đắng thực tại giả dối bao nhiêu, chúa sơn lâm càng tiếc thương đau đớn nhớ về dĩ vãng bấy nhiêu. Hổ vẫn thả hồn về giang sơn cũ trong giấc mộng ngàn to lớn, giấc mộng về rừng thảm, về tự do như một cõi thiên đường:

Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi!

   Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính vì nó đang chán ngán trước cuộc sống tù hãm rất tự do. Tâm trạng con hổ, vì khát vọng tự do, cũng chính là của nhà thơ, của cả một xã hội, một thời đại bấy giờ, đang bực tức, đang chán ngán cuộc sống thực tại mất tự do. Thật là một tâm trạng vừa kiêu hãnh vừa tuyệt vọng. Đó chính là điều làm nên sức sống mãnh liệt của hình tượng con hổ, của bài thơ.. Đó là tâm trạng của chúa sơn lâm mà cũng là tâm trạng của thế hệ thanh niên lãng mạn thời đại: khát khao tự do, sống cao cả, không chấp nhận cái buồn tẻ, vô nghĩa.

Nguồn: vietjack