Tuyệt Mật Trong Buồn Lái - Patrick Smith
Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 1 tháng 9 2020 lúc 22:30:52 | Được cập nhật: 8 tháng 5 lúc 5:08:42 Kiểu file: PDF | Lượt xem: 348 | Lượt Download: 3 | File size: 1.915459 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
LỜI NGỢI CA DÀNH CHO
PATRICK SMITH
“Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới
đằng sau mỗi ghế ngồi.”
—David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng
biên tập chương trình PBS
“Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến
du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một
chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ
rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.”
—Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác
giả của cuốn sách Flying Lessons
“Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa,
một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di
chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người.
—James Kaplan
“Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại
và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng
tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng
hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.”
—Alex Beam, Boston Globe
“Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình
luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có
một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề
mà tất cả mọi người đều thắc mắc.”
—Berke Breathed
“Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.”
—Cath Urquhart, The Times (London)
“Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali
của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành
hàng không.”
—Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước
“Sắc sảo và sâu sắc.”
—Joe Sharkey, The New York Times
“Tuyệt vời.”
—Rudy Maxa, the Savvy Traveler
“Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ.
Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta
nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước
tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào
ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.”
—Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và
Midwives
LỜI TÁC GIẢ VÀ LỜI CẢM ƠN
K
hi bắt đầu viết cuốn sách này, tôi định sẽ chỉ biến nó
thành một ấn bản mới mẻ hơn một chút của cuốn trước
đó, Ask the Pilot: Everything You Need to Know about Air
Travel, xuất bản vào năm 2004. Tôi càng chỉnh sửa thì cuốn sách
càng phát triển và thay đổi. Cuối cùng, nó trở thành một cuốn
sách hoàn toàn mới. Kết cấu vẫn tương tự và tôi có giữ nguyên
tên một số chương, nhưng nội dung bên trong mỗi chương thì
khác xa. Hầu như mọi thứ đều đã được cập nhật hoặc mở rộng
theo một cách nào đó, và khoảng 70% nội dung cuốn sách là
hoàn toàn mới.
Nội dung cuốn sách được lấy từ hơn 300 bài và mục báo vốn ban
đầu được viết cho tờ tạp chí trực tuyến Salon, bắt đầu vào năm
2002 với tên mục là Ask the Pilot. Các mục hỏi đáp chủ yếu là do
độc giả của tôi ở tờ Salon cung cấp, tôi vô cùng biết ơn họ vì đã
nhiệt tình và động viên tôi trong bao năm qua.
Tôi đã cố gắng hết sức để đảm bảo tính hợp thời lâu dài của các
thông tin trong sách, nhưng làm ơn hãy nhớ rằng ngành hàng
không thương mại là một bức tranh phong cảnh—hay có thể nói
là một bức tranh phong cảnh bầu trời—đầy những sự thật và số
liệu thống kê liên tục thay đổi. Các hãng hàng không ra đời rồi
chấm dứt hoạt động; máy bay được mua đi bán lại; các đường bay
được thay đổi và loại bỏ. Thỉnh thoảng lại xảy ra bi kịch.
Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến đại diện xuất bản của tôi là Sophia
Seidner, và đến Shana Drehs tại Sourcebooks. Những hỗ trợ về
hậu cần, đọc và sửa bản in, và sáng tạo đều là của Julia Petipas.
Các thông tin phụ trợ về âm nhạc do Bob Mould, Grant Hart, Greg
Norton, và Jazz Butcher Conspiracy cung cấp.
Tất cả các suy nghĩ và quan điểm nêu ra trong cuốn sách này đều
là của riêng tác giả, và không thể hiện suy nghĩ và quan điểm của
bất kỳ hãng hàng không, hãng đại diện, hay thực thể nào.
Để đọc và tìm hiểu
www.askthepilot. com.
Patrick Smith
Somerville, Massachusetts
thêm
thông
tin,
mời
truy
cập
LỜI DỊCH GIẢ
C
ó lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết
rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường
như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học
thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế.
Năm 1931, Antoine de Saint-Exupéry viết nên tác phẩm Bay Đêm
đầy thi vị. Phần lớn mọi người đã quá quen thuộc với tác phẩm
Hoàng Tử Bé từ nhỏ, nhưng mãi đến gần đây bạn đọc Việt Nam
mới được làm quen lại với tác phẩm tự truyện về cuộc đời sự
nghiệp của người phi công tài ba này. Là một người sống và làm
việc với máy móc kỹ thuật phức tạp, nhưng tâm hồn người phi
công này trái lại không hề khô khan mà đầy chất thơ. Ông sống là
chàng phi công thích làm thơ, lúc chết vẫn là viên phi công mẫn
cán, nhưng đời ông đã trở thành một bài thơ thật đẹp. Sinh nghề
tử nghiệp. Ông đã chọn cái kết đẹp như cuốn tự truyện của chính
mình – một viên phi công cháy hết mình vì tình yêu với bầu trời.
Hãy thử tưởng tượng bạn không chỉ đang thực hiện công việc
bình dị, nhàm chán, chuyên chở con người đi từ điểm này đến
điểm kia trên quả địa cầu, mà thực ra đang mang theo cả một
hành trình của nhân loại và chắp cánh cho mọi ước mơ và mong
mỏi nhanh chóng thành sự thật.
Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài
thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực
nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi
công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và
thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ
được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này.
Có điều lạ kỳ là khi xã hội đang ở đỉnh cao của tri thức nhân loại
và tốc độ phát triển vượt bậc của công nghệ, khi con người ta có
thể tiếp cận được kiến thức thuộc mọi lĩnh vực, từ việc một cái xe
bò cần mấy bánh, xe gắn máy/mô tô có mấy thì, xe ô tô cần bao
nhiêu cầu động cơ và lít xăng, thậm chí tàu con thoi vũ trụ phân
tách làm bao nhiêu phần khi được phóng ra ngoài không gian vũ
trụ mênh mông, tất cả điều này chúng ta đều biết rất rõ; thì vô
tình thay ta chẳng biết mấy về những con chim sắt đang bay vun
vút trên trời xanh cũng như chẳng có mấy khái niệm về những
người trên cao kia đang lặng lẽ âm thầm làm việc bất kể khoảng
cách và thời gian/múi giờ để nối kết xã hội, xóa bỏ mọi biên giới
và gắn kết các miền văn hóa lại gần nhau hơn.
Kể từ sự kiện bi thương 11/9 ở Mỹ khi không tặc tấn công Tòa
Tháp Đôi nổi tiếng, tiếp nối là tai nạn của hãng Air France danh
tiếng trên Đại Tây Dương năm 2009, và gần đây nhất là các vụ rơi
máy bay thương tâm của hãng Malaysia Airlines ở Ấn Độ Dương
cùng nhiều vụ tai nạn máy bay liên tiếp khác xảy ra ở khắp nơi
trên thế giới nói chung, và ngay như sự kiện rơi máy bay quân sự
Su-30MK2 tại Việt Nam nói riêng, nhiều câu hỏi đặt ra xung
quanh an toàn hàng không bao gồm cách hoạt động của máy bay
nói riêng lẫn cách vận hành của hãng hàng không nói chung. Thế
nhưng, dù cho khao khát lấp đầy điểm mù kiến thức này ngày
càng tăng lên trong xã hội, phần lớn chúng ta vẫn cảm thấy thật
khó khăn để tiếp cận những câu trả lời đơn giản, chính xác và
thuyết phục từ các nguồn phát ngôn chính thức. Và, như lẽ
thường, điều mơ hồ hoài nghi cùng lỗ hổng kiến thức sẽ luôn
khiến con người ta lo sợ vô căn cứ và phản ứng không phù hợp
với ngành hàng không.
Thấy được điều này, Patrick Smith, vị cơ phó với hơn 25 năm
kinh nghiệm lái phi cơ đã quyết tâm dốc lòng chia sẻ tất thảy
những gì có thể về công việc của mình cùng những câu chuyện
thú vị và bất ngờ xung quanh đời bay của những con chim sắt đó.
Cuốn sách mở ra như một bách khoa toàn thư cho người ham tìm
hiểu mọi thứ về kỹ thuật hàng không, hay như nhật ký hành
trình cuộc đời thăng trầm mỗi người phi công, hay chỉ đơn giản
là những mẩu đối thoại thông minh dí dỏm về tất tần tật những
gì chúng ta vẫn hay tò mò mỗi khi đi máy bay. Tôi tin là quyển
sách này sẽ phù hợp với mọi độ tuổi và mọi đối tượng đọc.
Tác giả là một phi công hoạt động chính ở nước Mỹ, do đó cuốn
sách không tránh khỏi đôi khi đi sâu vào cách thức hoạt động và
vận hành của hàng không Mỹ, điều có thể xa lạ với phần lớn bạn
đọc Việt Nam. Tuy nhiên, hàng không là ngành nghề xóa bỏ mọi
giới hạn, mọi khoảng cách địa lý, không gian và thời gian, vì thế
tôi tin rằng bất kể bạn thuộc quốc tịch nào và đến từ vùng đất
nào đi nữa, những kiến thức và thông tin trong cuốn sách này
đều sẽ luôn bổ ích và thiết thực.
Có thể xem Tuyệt Mật Trong Buồng Lái là một trong những tác
phẩm ít ỏi về ngành hàng không ở góc độ quốc tế nói chung, và là
một tác phẩm dịch hiếm hoi về mặt chuyên môn lẫn văn học
hàng không ở góc độ Việt Nam nói riêng. Tôi rất vinh dự vì được
góp một phần nhỏ vào cuốn sách này và đã cố gắng hết sức để
chuyển tải thông tin cũng như thông điệp của tác giả một cách
chính xác và vẹn toàn nhất. Khiếm khuyết khi chuyển ngữ, đặc
biệt là thuật ngữ khoa học kỹ thuật, sẽ khó tránh khỏi. Bản thân
tôi cũng như Ban Biên Tập Công ty TNHH Sách Hoa Hồng rất
hoan nghênh sự góp ý và đóng góp của mọi bạn đọc để tác phẩm
ngày càng hoàn thiện trong những lần tái bản sau.
Sài Gòn, tháng 06 năm 2016
LỜI GIỚI THIỆU
Cọ vẽ của người họa sĩ
H
ơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích
thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ
cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò,
làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành
cho những ai bị đánh lừa.
Việc này không phải là dễ, và tôi xin bắt đầu bằng một tiền đề
đơn giản: mọi điều bạn nghĩ là mình biết về hàng không đều là
sai lầm. Nói như thế là cường điệu, tôi hy vọng như vậy, nhưng
không phải là một điểm khởi đầu thái quá khi nhìn vào những gì
mà tôi đang đối mặt. Hàng không thương mại là mảnh đất màu
mỡ cho những thông tin sai lệch, và thật đáng giật mình khi thấy
những thần thoại, lối ngụy biện, và thuyết âm mưu dần ăn sâu
bén rễ vào sự sáng suốt thuở đầu đến mức nào. Ngay cả những
hành khách bay thường xuyên và hiểu biết nhất cũng dễ hiểu sai
một phần lớn của những gì đang thực sự diễn ra.
Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Đi máy bay là một việc
phức tạp, bất tiện, và thường là đáng sợ đối với hàng triệu người,
và đồng thời nó lại bị bao phủ bởi bức màn bí mật. Những bí ẩn về
nó bị che giấu đằng sau một bức tường của thuật ngữ chuyên
ngành, tính kiệm lời của các hãng hàng không, và truyền thông
vô trách nhiệm. Khỏi phải nói rằng các hãng hàng không không
phải là bên sẵn sàng cung cấp thông tin nhất, còn các nhà báo và
các cơ quan nghe nhìn lại thích làm cho thông tin thật đơn giản
và giật gân. Khó mà biết nên tin ai và tin vào điều gì.
Tôi sẽ cố gắng hết sức. Và trong quá trình đó, vâng, tôi sẽ cho bạn
biết cách máy bay ở trên không trung như thế nào. Tôi sẽ hướng
đến những băn khoăn căn bản nhất của bạn và giải quyết mấy tin
đồn không thể chịu nổi đó. Tuy nhiên, về bản chất, đây không
phải là một cuốn sách hướng dẫn bay. Tôi sẽ không nhồi nhét vào
đầu độc giả những chi tiết kỹ thuật của máy bay. Tôi không viết
cuốn sách này cho những người đam mê phụ tùng hay những
người có thiên hướng đam mê máy bay; độc giả của tôi không có
nhu cầu xem giản đồ động cơ phản lực của một kỹ sư không gian
vũ trụ, và một tràng giải thích kỹ thuật về các thiết bị buồng lái
hay hệ thống thủy lực của máy bay, chắc chắn sẽ rất nhàm chán
và tẻ nhạt – nhất là đối với tôi. Tất nhiên, tất cả chúng ta đều tò
mò muốn biết máy bay bay nhanh đến nhường nào, bay cao đến
đâu, có thể thống kê bao nhiêu đề mục về hệ thống dây nhợ và
ống dẫn. Nhưng là một tác giả và phi công, niềm đam mê của tôi
với hàng không không chỉ dừng lại ở bản thân chiếc máy bay, mà
còn bao gồm sự kịch tính đầy đủ, phong phú hơn thế của việc bay
từ đây đến đó – mà tôi hay gọi là “sân khấu” của việc di chuyển
bằng đường hàng không.
Với hầu hết chúng tôi, những người lớn lên để trở thành phi công
hàng không, lái máy bay không phải là thứ chúng tôi bắt đầu có
hứng thú sau khi vào đại học. Cứ hỏi bất kỳ phi công nào xem
tình yêu với ngành hàng không của anh ta bắt nguồn từ đâu, bạn
sẽ thấy câu trả lời hầu như luôn là từ thời niên thiếu – từ một
niềm ham thích hằn sâu trong tâm trí, không thể diễn tả nổi. Với
tôi thì chắc chắn là như vậy. Những bức tranh sáp màu đầu tiên
của tôi đều vẽ máy bay, và tôi học lái máy bay trước cả khi biết lái
ô tô. Tương tự như vậy, tôi chưa từng gặp phi công nào khác có
niềm đam mê đầy ám ảnh được hình thành giống như mình. Tôi
ít có hứng thú với bầu trời hay với bản thân trải nghiệm bay. Hồi
bé, hình ảnh một chiếc Piper Cub chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi
cả. Chỉ sau năm phút xem mấy chiếc Blue Angels thực hiện động
tác lăn xoay tròn là tôi đã chán phát khóc. Điều khiến tôi bị mê
hoặc là cách vận hành của các hãng hàng không: những chiếc
máy bay và điểm đến của họ.
Hồi lớp năm, tôi đã có thể phân biệt chiếc Boeing 727-100 với
727-200 bằng hình dáng của lỗ hút khí động cơ giữa (hình bầu
dục chứ không phải hình tròn). Tôi có thể dành hàng giờ một
mình trong phòng ngủ hoặc trên bàn ăn, nghiền ngẫm bản đồ
đường bay và lịch trình của Pan Am, Aeroflot, Lufthansa, và
British Airways, học thuộc lòng tên các thủ đô mà họ bay đến.
Lần sau khi bị nhét vào ghế phổ thông, hãy lật đến mấy trang bản
đồ đường bay ở cuối các tạp chí trên máy bay. Tôi có thể dành
hàng giờ nghiên cứu mấy tờ gập ba đó, cùng với mạng lưới điên
loạn của những cặp thành phố, đắm chìm trong thứ giống như
truyện người lớn dành cho phi công cấp thấp. Tôi biết biểu trưng
và diện mạo của tất cả các hãng hàng không nổi tiếng (và cả
nhiều hãng chẳng nổi tiếng gì), và có thể vẽ lại chúng bằng viết
chì màu.
Vì vậy, tôi học địa lý cũng kỹ như học hàng không vậy. Với nhiều
phi công, thế giới bên ngoài những đường vẽ trên bản đồ đường
bay ấy mãi mãi chỉ là khái niệm trừu tượng, các đất nước và nền
văn hóa đối với họ ít ỏi hoặc chẳng có gì đáng hứng thú bên ngoài
tường rào sân bay hay vành đai khách sạn nơi họ chờ chuyển
tiếp. Với những người khác, như tôi chẳng hạn, đến một lúc nào
đó, những địa điểm ấy trở nên có ý nghĩa. Ta cảm thấy hứng khởi
không chỉ từ cái hành động di chuyển trên không trung, mà còn
từ cái ý niệm được đi đâu đó. Bạn không chỉ đang bay, mà là đang
du lịch. Sự hòa nhập đẹp đẽ, hoàn toàn giữa bay và du lịch, du
lịch và bay. Chúng chẳng phải là một hay sao? Với tôi thì là như
vậy. Đúng là điều này có thể truyền cảm hứng cho điều kia,
nhưng những lúc rảnh rỗi tôi sẽ chẳng lang thang đến nhiều
nước như vậy – từ Campuchia đến Botswana, Sri Lanka đến
Brunei – nếu tôi không đam mê ngành hàng không đầu tiên.
Nếu có khi nào tôi cảm nhận được rõ ràng mối liên hệ này thì đó
là một đêm của vài năm về trước, trong một chuyến du lịch đến
Mali ở Tây Phi. Tôi có thể viết hàng trang liền về những điều kỳ
thú và lạ lùng của vùng Tây Phi, nhưng một trong những khoảnh
khắc đáng nhớ nhất của chuyến đi đó diễn ra tại sân bay ở
Bamako, chỉ vài giây sau khi máy bay của chúng tôi tiếp đất tại
Paris. Hai trăm hành khách chúng tôi leo cầu thang ngoài trời
xuống một vùng tối tăm nham hiểm giữa đêm khuya. Không khí
phủ đầy sương và có mùi khói giống như cháy rừng. Ánh đèn pha
màu vàng kiểu quân đội chiếu ngang dọc sân đỗ. Chúng tôi diễu
hành nghiêm trang quanh khu vực bên ngoài chiếc máy bay, đi
về hướng đuôi máy bay theo một vòng cung rộng tiến về phía ga
đến. Có cảm giác thật long trọng và lễ nghi. Tôi vẫn nhớ cảnh đi
bộ phía dưới chiếc đuôi xanh trắng cao vút của chiếc máy bay Air
France, tua-bin phụ của nó vẫn đang gầm rú vào đêm đen. Cảm
giác thật hứng khởi, và nếu nói một cách không phải đạo thì là
ngoại lai. Và chính chiếc máy bay lạ thường ấy đã đưa chúng tôi
đến đây. Chỉ trong vài giờ chứ không ít hơn – một hành trình
từng mất đến vài tuần nếu đi bằng tàu biển và xe moóc sa mạc.
Sự thiếu liên kết giữa việc đi máy bay và văn hóa đối với tôi là
hoàn toàn trái với tự nhiên, vậy mà chúng ta đã thấy một sự đứt
gãy gần như hoàn toàn. Không còn ai thèm quan tâm đến việc
bạn di chuyển như thế nào nữa – phương tiện đã bị tách rời một
cách lạnh lùng khỏi mục tiêu. Với hầu hết mọi người, dù đang
trên đường đến Kansas hay Kathmandu thì máy bay vẫn là một
thứ không mong muốn nhưng phải chấp nhận, đi kèm theo hành
trình nhưng không còn là một phần của nó. Một người bạn gái cũ
của tôi, một họa sĩ có thể dễ dàng đánh giá đúng được cách sử
dụng ánh sáng trong một bức tranh hồi thế kỷ 17 của Vermeer,
nhưng lại thấy quan điểm của tôi hoàn toàn khó hiểu. Giống như
hầu hết mọi người, cô ấy coi máy bay chỉ như một công cụ. Cô ấy
tin rằng bầu trời là tấm toan vẽ; chiếc máy bay hoàn toàn có thể
loại bỏ cũng giống như cây cọ của họa sĩ vậy. Tôi không đồng ý, vì
cũng giống như nét cọ tượng trưng cho một khoảnh khắc cảm
hứng nghệ thuật, du lịch sẽ là gì nếu không có hành trình?
Chúng ta chỉ coi hàng không là một địa hạt kỹ thuật đầy ấn tượng
nhưng rốt cuộc cũng chẳng có gì thích thú. Tôi đang ngồi đó, trên
một chiếc Boeing 747, nếu đẩy nhẹ mũi nó lên thì chiếc máy bay
này sẽ bay lên một độ cao tương đương với một tòa nhà văn
phòng 20 tầng. Tôi đang ở độ cao 33.000 feet (10.058 mét) phía
trên Thái Bình Dương, di chuyển với tốc độ 600 dặm/giờ, đi về
miền Viễn Đông. Còn hành khách thì đang làm gì? Than phiền,
giận dỗi, nhăn nhó gõ lạch cạch vào máy tính xách tay của mình.
Người ngồi cạnh tôi đang khó chịu vì có vết lõm trên lon ginger
ale1 của ông ta. Đây có lẽ là hiện thực của nền công nghệ đã phát
triển tối đa. Bằng cách này hay cách khác, sự tiến bộ sẽ khiến cho
điều phi thường trở nên bình thường. Nhưng chẳng phải chúng
ta đang đánh mất đi góc nhìn quý giá khi bắt đầu đánh đồng
những thứ thông thường, ít nhiều về mặt định nghĩa, với những
thứ tẻ nhạt? Chẳng phải chúng ta đang mất đi một thứ gì đó quan
trọng khi dửng dưng khinh bỉ hình ảnh một chiếc máy bay –
trong khi có thể thảy ra vài trăm đô-la là có thể bay nửa vòng thế
giới với tốc độ gần bằng tốc độ âm thanh? Tôi biết là khó mà nghĩ
như vậy được trong cái thời đại xếp hàng dài dằng dặc, những lần
hoãn chuyến thảm hại, máy bay quá tải, và đám trẻ con không
chịu nín khóc. Để cho rõ ràng, tôi không đang ca tụng mấy chiếc
ghế tí hon hay sự tinh tế về ẩm thực nằm trong mấy gói đồ ăn vặt
tổng hợp 15 gram. Sự thấp kém và rắc rối của hàng không hiện
đại là thứ không cần phải phân tích và đã được ghi nhận đầy đủ.
Nhưng dù bạn có tin hay không thì khi đi máy bay vẫn còn nhiều
điều mà hành khách có thể thưởng thức và tận hưởng.
1. Nước ngọt có ga hương gừng.
Tôi cảm thấy do dự khi nói rằng chúng ta đã hình thành cái suy
nghĩ cho rằng mình đương nhiên phải có quyền, nhưng quả đúng
là như vậy. Ngoài những thành tựu về công nghệ, hãy suy nghĩ
về thành tích đáng kể của ngành hàng không về mức độ an toàn
và rằng giá vé vẫn luôn rẻ đến giật mình, ngay cả sau nhiều lần
giá dầu tăng mạnh. Đúng là nhiều năm trước, hành khách được
tiếp viên hàng không mặc vest phục vụ bữa ăn gồm năm món rồi
lui về nằm nghỉ trên giường riêng. Lần đầu tiên tôi đi máy bay là
vào năm 1974: Tôi vẫn nhớ cảnh cha tôi mặc com-lê, đeo cà vạt,
với hai phần cheesecake tươi ngon khi bay một chuyến nội địa
dài 90 phút. Vấn đề nằm ở chỗ, hồi đó đi máy bay rất tốn kém.
Nhiều người ngày nay không thể hiểu nổi điều này, đặc biệt là
những người trẻ, nhưng ngày xưa không có chuyện sinh viên đại
học đáp máy bay về nhà vài ngày nhân dịp Giáng Sinh. Hồi đó
bạn không thể săn được vé phút chót giá 99 đô-la rồi bay đến Las
Vegas – hay Mallorca hay Phuket – cho một kỳ nghỉ cuối tuần kéo
dài. Khi đó đi máy bay là một điều xa xỉ, và mọi người thỉnh
thoảng mới dám xả láng như vậy một lần, hoặc có khi là không
bao giờ. Vào năm 1939, bạn phải tốn 750 đô-la để bay trên chiếc
Dixie Clipper của Pan Am cho một chuyến khứ hồi từ New York
đến Pháp. Giá vé đó tương đương với 11.000 đô-la ngày nay. Vào
năm 1970, giá vé để bay từ New York đến Hawaii tương đương
với 2.700 đô-la ngày nay.
Chuyện đã khác. Ít nhất thì máy bay đã có hiệu suất cao hơn. Nhờ
có những chiếc phi cơ như 707 và 747 mà việc đi máy bay đường
dài đã trở nên phải chăng đối với đại bộ phận người dân. Tiếp
theo đó là hiệu ứng của việc bãi bỏ quy định, thay đổi mãi mãi
phương thức cạnh tranh của các hãng hàng không. Giá vé giảm
sâu, hành khách đổ xô đến. Đúng, đi máy bay càng ngày càng khó
chịu và kém thoải mái. Và giá vé cũng đã trở nên phải chăng đối
với hầu hết mọi người.
Tôi đã học cách không bao giờ đánh giá thấp nỗi ác cảm của mọi
người đối với các hãng hàng không và mức độ ghét bay của họ.
Tuy một phần trong mối ác cảm ấy là đúng, nhưng phần lớn là
không công bằng. Ngày nay, hành khách có thể đeo ba-lô và đi
dép xỏ ngón, vượt đại dương với mức giá tương đương với vài xu
mỗi dặm, với mức độ an toàn gần như tuyệt đối và với 85% khả
năng đến nơi đúng giờ. Đây có thực sự là cách di chuyển tồi tệ
đến vậy không? Trong khi đó, nếu bạn thèm muốn được quay trở
lại với những thú xa xỉ của thời đại hoàng kim của ngành hàng
không đến vậy, thì bạn cũng có thể làm thế, bằng cách mua một
tấm vé hạng nhất hoặc hạng thương gia – với mức giá thấp hơn
hồi năm mươi năm trước.
1.
THUẦN TÚY VỀ MÁY BAY
Về cánh máy bay và knot
Câu hỏi căn bản: Trước hết, làm thế nào mà những chiếc máy
bay khổng lồ ấy vẫn có thể ở trên không khi chở hàng tấn hàng
hóa và cả trăm con người được?
V
âng, đây chính là câu hỏi cốt lõi trong nỗi tò mò về những
chiếc máy bay của tất cả dân không chuyên. Mặc dù việc
đưa được hàng trăm ngàn kilogram máy móc lên trời có
thể được xem là kỳ diệu, nếu không nói là một phép màu, thì cách
nó vận hành lại cơ bản và dễ minh họa một cách đáng ngạc
nhiên. Lần sau, khi bạn ngồi trên chiếc Toyota của mình lướt trên
đường cao tốc, hãy giơ tay ra ngoài cửa sổ xe sao cho vuông góc
với xe và song song với mặt đất. Hướng bàn tay lên trên một
chút, bắt vào dòng khí, điều gì sẽ xảy ra? Bạn đã tạo ra một cái
cánh, và cánh tay bạn đang “bay.” Và nó sẽ tiếp tục bay nếu bạn
giữ bàn tay mình ở một góc thích hợp và lái xe ở tốc độ đủ nhanh.
Nó bay vì không khí đang đỡ nó lên. Máy bay cũng tương tự như
vậy. Đúng là bạn không khiến chiếc Toyota rời khỏi mặt đất
được, nhưng hãy tưởng tượng rằng bàn tay bạn rất rất to và chiếc
xe có đủ mã lực để chạy rất rất nhanh. Mấu chốt để bay nằm ở chỗ
tạo được đúng độ chênh lệch giữa bốn lực tác dụng lên máy bay;
nghĩa là lực đẩy của động cơ đủ mạnh hơn lực cản của không khí,
và lực nâng đủ mạnh hơn trọng lực1. Hay nói như Orville
Wright2: “Máy bay ở trên không vì nó không có thời gian để rơi
xuống.”
1.
Có bốn lực tác động lên máy bay: lực đẩy của động cơ theo
chiều từ đuôi đến mũi máy bay, lực cản của không khí theo chiều
từ mũi đến đuôi máy bay, lực nâng khí động học song song với
trọng lực theo chiều từ dưới lên trên, và trọng lực.
2.
Orville Wright, cùng với anh trai mình là Wilbur Wright, là
những người đầu tiên trên thế giới chế tạo và thử nghiệm thành
công máy bay bay được.
Trong kiến thức sơ đẳng về bay còn có Nguyên lý Bernoulli, được
đặt theo tên của nhà toán học người Thụy Sỹ Daniel Bernoulli ở
thế kỷ 18, người đã chẳng nhìn thấy chiếc máy bay nào trong đời
mình. Khi đi qua khe hẹp hoặc trên bề mặt cong, chất lưu sẽ tăng
tốc và đồng thời áp suất của nó sẽ giảm. Trong trường hợp này
chất lưu là không khí, di chuyển nhanh hơn ở phía trên cánh máy
bay có bề mặt cong (áp suất thấp hơn), so với không khí di
chuyển ở mặt dưới cánh máy bay có bề mặt phẳng hơn (áp suất
cao hơn). Từ đó tạo ra một lực đẩy khiến cánh máy bay giống như
đang lơ lửng trên một tấm đệm áp suất cao.
Tôi sẽ bị quở trách vì đưa ra một lời giải thích quá đơn giản
nhưng đó thực sự là bản chất của vấn đề: nguyên lý chênh lệch áp
suất của Bernoulli, cùng với sự chuyển hướng thuần tuý của các
phân tử khí như trong ví dụ đưa tay ra ngoài cửa sổ xe, đã tạo nên
phần cấu thành không thể thiếu của hoạt động bay: lực nâng.
Mất lực nâng được gọi là thất tốc. Một lần nữa, khái niệm cơ bản
này cũng được minh họa dễ dàng trên đường cao tốc: nghiêng
bàn tay hơi quá một tí xíu hoặc phanh chiếc Toyota lại dưới một
tốc độ nhất định, và thế là cánh tay bạn sẽ ngừng bay.
Nhưng chỉ cần liếc sơ qua các chi tiết trên cánh máy bay thì tôi
cũng thấy rằng nó hẳn phải còn nhiều thứ hơn nữa kìa.
Rõ là vậy. Cánh tay bạn bay được – thậm chí một viên gạch cũng
có thể bay được nếu bạn cung cấp đủ không khí bên dưới – nhưng
nó sẽ không bay thật cao đâu. Cánh máy bay phản lực3 cần phải
bay rất rất giỏi. Cánh máy bay đạt hiệu suất tối ưu khi bay bằng.
Điều này xảy ra ở độ cao cực lớn và suýt vượt rào cản âm thanh
đối với hầu hết các máy bay loại này. Nhưng chúng cũng cần đạt
được hiệu năng cao ở cả những trường hợp có độ cao và tốc độ
đều thấp. Đây chính là bài toán hóc búa dành cho các kỹ sư và các
hầm gió (windtunnel) của họ. Mặt cắt ngang của cánh máy bay
mà quanh đó không khí hoạt động được gọi là biên dạng cánh
(airfoil), và nó được thiết kế rất tỉ mỉ. Không chỉ về tiết diện mà
còn về sải cánh – hình dáng và độ dày thay đổi từ phía trước đến
phía sau và từ gốc đến ngọn, tuân theo các phép tính khí động lực
học mà cả tôi và bạn đều không thể hiểu rõ ngọn ngành được.
3.
Jetliner: Ngày nay các máy bay chở khách sử dụng loại động cơ
phản lực tên là jet engine, là một loại động cơ đốt sinh một luồng
khí (air jet) đẩy thật nhanh về phía sau, đẩy máy bay ra phía
trước tuân theo định luật 3 của Newton về chuyển động. Khi nói
động cơ phản lực nói chung (reaction engine) thì có cả jet engine
vừa nêu, động cơ tên lửa và cả những loại động cơ khác, sử dụng
nguyên lý trong định luật 3 đã nêu. Từ nay về sau nếu không có
chú thích thêm thì người đọc hiểu máy bay phản lực hay máy
bay nói chung là loại máy bay sử dụng động cơ phản lực loại jet
engine – ND.
Cánh máy bay được thiết kế bao gồm một loạt các bộ phận phụ –
cụ thể là cánh tà sau, cánh tà trước, và cánh tà lưng. Các cánh tà
sau chuyển động về phía sau và phía dưới, tăng độ cong của biên
dạng cánh nhằm đảm bảo độ vững và an toàn khi bay ở tốc độ
thấp hơn. (Các máy bay dân dụng mở rộng cánh tà sau trong quá
trình cất cánh và hạ cánh, tuy nhiên cách vận hành chính xác sẽ
tùy thuộc vào từng loại máy bay.) Có các bộ cánh tà sau gắn trong
và gắn ngoài, bản thân chúng có thể được phân cắt theo chiều
ngang. Các cánh tà trước cuộn ra phía trước từ mép trước của
cánh chính và thực hiện chức năng tương tự. Cánh tà lưng là
những tấm hình chữ nhật nhô lên từ mặt trên của cánh chính.
Cánh lưng khi bật lên sẽ cản dòng khí di chuyển trên bề mặt cánh
chính tương ứng, phá hủy lực nâng và đồng thời tăng mạnh lực
cản của không khí. Trong quá trình bay, chúng được dùng để
tăng tốc độ hạ cánh; khi đã hạ cánh, chúng hỗ trợ giảm tốc.
Tôi nhớ một trong những lần đầu tiên đi máy bay, ngồi ở ghế
cạnh cửa sổ trên một chiếc 727, ngay phía sau cánh máy bay, và
cách mà cái cánh dường như tự tháo rời ra trong quá trình hạ
cánh. Các cánh tà sau to lớn gồm ba khớp bắt đầu cuộn xuống,
các cánh tà lưng vẫy rung rinh, các cánh tà trước được thả vào vị
trí. Gần như là một điều thần kỳ, bạn có thể nhìn xuyên qua
chính giữa cánh máy bay, như thể nhìn thấu qua bộ xương của
một con thú trơ xương nào đó, với những ngôi nhà và cây cối
thấp thoáng ở những chỗ các phần cánh tách ra.
Có thể bạn đã để ý thấy rằng máy bay sử dụng động cơ phản lực
có cánh hướng về phía sau. Khi cánh máy bay cắt ngang bầu trời,
các phân tử khí tăng tốc trên mặt cong của nó. Khi sự tăng tốc
của các phân tử khí đạt đến tốc độ âm thanh, sóng xung kích sẽ
hình thành trên bề mặt, có khả năng triệt tiêu lực nâng. Việc
nghiêng cánh máy bay ra phía sau giúp dòng khí di chuyển dọc
theo sải cánh một cách hợp lý hơn. Ở các máy bay tốc độ cao hơn,
góc nghiêng cánh có thể lên đến hơn 40 độ; còn máy bay chậm
nhất gần như không có góc cánh này. Trong khi đó, cánh cũng
nghiêng lên trên so với gốc cánh, chống lại chuyển động xoay và
chuyển động theo phương ngang gọi là chuyển động hướng
(yaw4). Góc nghiêng này, dễ quan sát nhất khi nhìn từ phía trước
mũi máy bay, được gọi là độ chếch cánh (dihedral5). Còn người
Liên Xô (cũ) luôn đi ngược trào lưu thì từng áp dụng một phiên
bản đối lập gọi là anhedral, bẻ cánh máy bay xuống dưới. Cánh
máy bay là tất cả. Máy bay được lắp ráp dựa trên cánh của mình
cũng giống như ô tô được lắp ráp dựa trên khung gầm hay xe đạp
dựa trên khung sườn. Cánh máy bay lớn tạo lực nâng lớn – đủ sức
nâng một chiếc 747 ở tải trọng tối đa, tức khoảng gần một triệu
pound, lên khỏi mặt đất khi đạt khoảng 170 knot (314,84 km/h).
4.
Máy bay có thể thực hiện ba kiểu chuyển động là roll, pitch, và
yaw. Roll hay xoắn/ liệng là chuyển động nghiêng khi một cánh
máy bay liệng xuống và cánh còn lại liệng lên, chuyển động này
diễn ra xung quanh trục x (trục dọc thân máy bay). Pitch là
chuyển động chúc ngóc khi mũi máy bay ngẩng lên và cúi xuống,
chuyển động diễn ra xung quanh trục y (trục dọc cánh máy bay).
Yaw là sự lắc ngang của máy bay, hay chuyển động hướng khi
mũi máy bay quay qua trái hoặc phải, chuyển động diễn ra xung
quanh trục z (trục thẳng đứng, song song với trọng lực, vuông
góc với thân máy bay).
5.
Dihedral - độ chếch của cánh. Thuật ngữ này chỉ góc tạo ra bởi
mút cánh cao hơn phần giữa cánh. Cánh có dạng chữ V. Tàu huấn
luyện thường có cánh có dihedral. Tác động của dihedral là nhằm
tạo cân bằng lực và giữ cho cánh thăng bằng hoặc đưa cánh trở về
vị trí cân bằng.
Knot (nút) là gì?
Trong bài viết của mình “A Supposedly Fun Thing I’ll Never Do
Again” (tạm dịch: “Một trò tưởng là vui mà tôi sẽ không bao giờ
lặp lại”), David Foster Wallace6 khi đang trên chiếc du thuyền của
mình, và liên tục thắc mắc khi nghe từ “knot,” không tài nào
đoán được chúng là gì. Tôi nghĩ anh ta có ý lừa phỉnh thôi.
Wallace là trùm toán, và đáp án lại khá dễ: một knot là một dặm
trên giờ, thường được dùng trong cả hàng hải và hàng không. Có
điều ở đây là một dặm biển-hải lý chứ không phải một dặm thông
thường. Dặm biển dài hơn một chút (6.082 bộ so với 5.280 bộ7).
6. David Foster Wallace: nhà văn nổi tiếng người Mỹ.
7.
1 foot (bộ) = 0,3048 mét. 1 dặm (statute mile) = 5.280 bộ =
1609 mét. 1 hải lý (nautical mile) = 1.852 mét ≈ 6.076 bộ.
Do đó, 100 knot nhanh hơn một chút so với 100 dặm trên giờ.
Nguồn gốc của từ này xuất phát từ thời mà người ta đếm số nút
thắt trên một đoạn dây được ném từ trên thuyền xuống nước để
đo khoảng cách. Một hải lý tương đương với 1/60 của một kinh
độ dọc theo xích đạo. Với 60 hải lý tương đương với một độ,
chúng ta tính được chu vi xích đạo Trái Đất là 360 độ và 21.600
hải lý (40.003,2 km).
Ngoài cánh tà trước và cánh tà sau, tôi vẫn không hiểu các bộ
phận chuyển động khác ở mặt ngoài của máy bay. Tôi thấy các
tấm panen chuyển động lên xuống, còn những tấm ở đuôi máy
bay thì chuyển động ngang ...
Khi một chú chim cần điều hướng, nó thực hiện bằng cách xoay
cánh và đuôi, điều mà các phi công đầu tiên đã mô phỏng lại bằng
cách đưa cấu tạo bẻ cánh vào máy bay đời đầu. Nhưng máy bay
thời nay được làm từ nhôm và các vật liệu composite chịu lực cao
chứ không phải từ gỗ, vải, hay lông chim. Được vận hành bằng
sức nước, điện, và/hoặc điều khiển bằng tay qua dây cáp, các bộ
phận di động khác nhau được gắn khớp với nhau để giúp chúng
ta tăng độ cao, giảm độ cao, và chuyển hướng.
Ngay phía trên của phần cuối thân máy bay là đuôi máy bay, hay
còn gọi là cánh ổn định đứng, có chức năng đúng như hình dáng
của nó thể hiện – giữ thẳng máy bay. Được nối vào bản lề mép sau
của đuôi là cánh lái đuôi. Cánh lái đuôi bổ trợ chứ không điều
khiển việc đổi hướng; chức năng chính của nó là giữ ổn định,
kiềm chế chuyển động lắc ngang, hay còn gọi là chuyển động
hướng. Một số cánh lái đuôi được chia thành các phần chuyển
động cùng nhau hoặc riêng biệt, tùy thuộc vào tốc độ của máy
bay. Phi công làm cánh lái đuôi chuyển động nhờ các bàn đạp
chân, mặc dù có một dụng cụ gọi là thiết bị giảm lắc (yaw
damper) đã tự động giải quyết phần lớn nhiệm vụ này.
Phía dưới đuôi máy bay, hoặc đôi khi là được gắn liền vào đuôi
máy bay, là hai cánh nhỏ. Chúng là các cánh ổn định ngang, và
các phần di động ở rìa sau của chúng được gọi là bánh lái độ cao.
Các bánh lái độ cao điều khiển chuyển động chúc lên/chúi xuống
của mũi máy bay, khi phi công kéo đẩy cần điều khiển về phía
trước hay phía sau.
Cánh liệng, nằm ở mép sau của cánh chính, chịu trách nhiệm đổi
hướng. Các phi công đánh lái bằng bánh lái hoặc cần điều khiển,
điều khiển cho các cánh liệng gập lên hay xuống. Chúng được nối
liền với nhau và áp dụng các lực đối nghịch: khi cánh liệng trái
gập lên, cánh liệng phải gập xuống. Cánh liệng một bên nhô lên
làm giảm lực nâng của bên đó, khiến cánh chính tương ứng hạ
xuống, còn cánh liệng gập xuống sẽ có tác động ngược lại. Chỉ cần
một chuyển động nhỏ của cánh liệng cũng khiến máy bay đổi
hướng rất lớn, vì vậy không phải lúc nào bạn cũng thấy chúng
chuyển động. Tưởng như máy bay nghiêng đi mà không cần bất
kỳ thứ gì nhúc nhích, nhưng trên thực tế thì các cánh liệng đã
hoàn thành nhiệm vụ của chúng, dù chỉ thoáng qua. Các máy bay
lớn có hai cánh liệng trên mỗi cánh chính, ở bên trong và bên
ngoài, hoạt động theo cặp hoặc riêng lẻ, tùy thuộc vào tốc độ.
Cánh liệng thường được kết nối với cánh tà lưng đã nêu ở trên,
phần nào hỗ trợ đổi hướng.
Như vậy, bạn có thể thấy rằng dù chỉ một chuyển động đơn giản
cũng đòi hỏi một loạt các bộ phận máy bay chuyển động. Nhưng
nếu bạn đang tưởng tượng hình ảnh một phi công xui xẻo phải
đạp chân loạn xạ và cuống cuồng chộp lấy các cần gạt thì hãy nhớ
rằng các bộ phận riêng lẻ đều được kết nối với nhau. Chỉ cần điều
khiển bánh lái hoặc trụ lái sẽ tạo ra một loạt các chuyển động bên
ngoài.
Thêm vào mớ bòng bong này là chuyện các cánh lái đuôi, bánh
lái độ cao và cánh liệng đều được trang bị các mẩu vạt nhỏ hơn,
và chúng hoạt động độc lập với bề mặt chính. Các vạt “xoay”
(“trim” tab) này tinh chỉnh các chuyển động chúc ngóc, nghiêng,
và rẽ hướng.
Nếu bạn vẫn đang theo kịp những gì tôi vừa trình bày, và trước
khi ghi nhớ tất cả, bạn sẽ rùng mình khi biết rằng còn có các biến
thể đặc thù của hầu hết những gì tôi vừa mô tả. Một chiếc máy
bay mà tôi từng lái có các cánh tà lưng chỉ sử dụng sau khi hạ
cánh, một số khác thì cánh tà lưng hỗ trợ đổi hướng, và số khác
nữa thì cánh tà lưng dùng để giảm tốc trong quá trình bay. Một
số mẫu Boeing được trang bị không chỉ các cánh tà sau ở mép
cánh sau như thông thường mà còn cả ở mép cánh trước, cũng
như các cánh tà trước. Chiếc Concorde không có cánh ổn định
ngang, do đó không có bánh lái độ cao. Nhưng nó lại có các
“elevon8.” Chúng ta sẽ tìm hiểu về nó và “flaperon9” vào một dịp
khác.
8. elevon: những bộ phận di động bên ngoài máy bay.
9.
flaperon: Kết hợp cả 2 công dụng: Aileron (cánh liệng)- giúp
máy bay nghiêng cánh để đổi hướng, và Flap (cánh tà) – tăng
giảm sức nâng giúp máy bay có khả năng cất cánh dễ dàng hơn
(chạy đà ngắn hơn) đồng thời hạ cánh được chậm hơn. Bình
thường có thể nhìn thấy cánh tà là cánh xếp lớn nhất, flaperon là
cánh xếp nhỏ nhất, và cánh liệng ở gần hai đầu cánh. Flaperon
chỉ được đưa ra lúc cất cánh và hạ cánh, khi bay thu vào trong
cánh.
Nhiều máy bay có những chiếc vây nhỏ vểnh lên ở phía cuối cánh
chính. Chúng có tác dụng gì?
Ở rìa cánh máy bay, áp suất cao hơn phía dưới cánh gặp áp suất
thấp hơn ở phía trên cánh, tạo ra một luồng không khí nhiễu
loạn. Các đầu cánh, hay còn được gọi một cách thân thương là
cánh nhỏ, góp phần làm dịu đi sự nhiễu loạn này, làm giảm lực
cản của không khí, từ đó nâng cao tầm bay và hiệu suất hoạt
động. Vì các máy bay khác nhau có các đặc tính khí động học
khác nhau nên không phải lúc nào đầu cánh cũng là cần thiết
hoặc hiệu quả về chi phí. Ví dụ như chiếc 747-400 và A340 có
đầu cánh còn chiếc 777 thì không dù nó cũng là một chiếc máy
bay thân rộng bay đường dài. Bởi trước đây tiết kiệm nhiên liệu
không phải là mối ưu tiên hàng đầu như hiện nay, và vì các lợi
thế của đầu cánh phải đến gần đây mới được hiểu rõ, nên chúng
không có mặt trong thiết kế của các mẫu máy bay trước đây. Với
các máy bay này – bao gồm cả chiếc 757 và 767 – các đầu cánh
tồn tại chỉ như một lựa chọn hoặc bộ phận hỗ trợ. Hãng máy bay
cân nhắc liệu lượng nhiên liệu tiết kiệm được về lâu dài có xứng
đáng với chi phí lắp đặt, có khi lên đến hàng triệu đô-la cho mỗi
chiếc máy bay, hay không. Điều này tùy thuộc vào mục đích bay.
Tại Nhật Bản, Boeing đã bán một số lượng máy bay 747, chuyên
dụng cho các chặng bay nội địa ngắn có sức chứa lớn, với đầu
cánh bị loại bỏ. Đầu cánh chỉ giúp cải thiện hiệu suất ở mức tối
thiểu đối với các chuyến bay ngắn hơn, và loại bỏ chúng nghĩa là
máy bay sẽ nhẹ hơn và dễ bảo trì hơn.
Thẩm mỹ lại là chuyện cá nhân. Tôi thấy đầu cánh trên một số
máy bay rất đẹp, ví dụ như chiếc A340, nhưng lại khá vụng về
trên một số chiếc khác, ví dụ như chiếc 767. Chúng có nhiều kiểu
dáng khác nhau. Một số thì to và nhộn, trong khi một số khác lại
chỉ là một điều chỉnh nhỏ. Với “đầu cánh cong (blended
winglet)”, cánh máy bay được vuốt cong dần chứ không có góc
cứng nào. Các máy bay như 787 và Airbus A350 sử dụng một
thiết kế tích hợp hơn, thỉnh thoảng được gọi là “raked winglet
(đầu cánh vát về phía sau)”.
Những chiếc ống dài hình ca-nô nhô ra bên dưới cánh máy bay
là gì?
Chúng chỉ là các tấm vỏ – các thiết bị tạo khí động lực gọi là
fairing. Tuy chúng có hỗ trợ giảm sự hình thành sóng xung kích
tốc độ cao nhưng mục đích chính của chúng lại khá bình thường:
điều hòa dòng khí xung quanh cơ chế duỗi cánh tà sau ở phía
trong.
Không lâu trước đây có một trường hợp trong đó một nhóm hành
khách hoảng sợ khi để ý thấy máy bay thiếu một trong số các tấm
vỏ đó. Họ từ chối lên chuyến bay vì – theo như truyền thông đưa
tin về vụ việc – “một phần của cánh máy bay bị thất lạc.” Trên
thực tế, nó đã được tháo ra trước đó để sửa chữa sau khi bị một
chiếc xe tải chở đồ ăn trong sân đỗ làm hư hại. Bay mà không có
tấm fairing có thể dẫn đến một chút bất lợi về hao tổn nhiên liệu,
nhưng máy bay vẫn hoàn toàn có thể bay được. (Về việc liệu máy
bay có được phép thiếu bộ phận nào hay không, và nó có thể dẫn
đến bất lợi nào, mời xem Danh mục Sai lệch Cấu hình của máy
bay [trang 64]).
Máy bay phản lực có thể nhào lộn trên không được chứ? Phi cơ
747 có thể bay nhào lộn hoặc bay ngửa10không?
10. Thân máy bay lộn ngược lại 180 độ so với thông thường.
Trên lý thuyết, bất kỳ máy bay nào cũng có thể thực hiện hầu hết
các động tác, từ nhào lộn đến những cú lăn xoay tròn cũng như
kiểu bay đảo chiều ngược nhằm thay đổi phương hướng và độ cao
kiểu Immelman11. (Trong một màn trình diễn máy bay vào cuối
những năm 1950, một chiếc Boeing 707 đã được cố tình lộn
ngửa.) Tuy nhiên, nếu máy bay có khả năng thực hiện điều này
thì phần lớn chỉ là nhờ có thừa lực đẩy tạo bởi động cơ hoặc mã
lực, và các máy bay thương mại nhìn chung đều thiếu một động
cơ đủ mạnh tương xứng với trọng lượng của chúng. Dù sao thì đó
cũng không phải là một ý tưởng hay. Các phần hợp thành của
máy bay dân dụng không được thiết kế để biểu diễn nhào lộn, và
có thể gặp hư hại – hoặc tệ hơn. Hơn nữa, các nhân viên vệ sinh
hẳn sẽ phải thức thâu đêm để lau sạch các vết ố cà phê và những
bãi nôn.
11.
Đây là thuật ngữ chuyên dụng trong không quân chỉ kiểu bay
chiến đấu đặc thù bắt nguồn từ Thế chiến thứ nhất, được đặt
theo tên của Max Immelmann, phi công chiến đấu đầu tiên của
Đức trong cuộc chiến này, cũng là người đã sáng tạo kỹ thuật bay
trên.
Có lẽ điều đó sẽ khiến bạn thắc mắc, sao bất kỳ máy bay nào cũng
có thể bay lộn ngửa được khi mà, theo như tôi nói ở trên, cánh
máy bay cong ở mặt trên và phẳng ở mặt dưới, dẫn đến sự chênh
lệch áp suất tạo ra lực nâng? Nếu bay lộn ngửa, chẳng phải lực
nâng sẽ có tác dụng theo chiều ngược lại, đẩy máy bay xuống mặt
đất hay sao? Ở chừng mực nào đó thì đúng là như vậy. Nhưng
như chúng ta đã thấy, cánh máy bay tạo ra lực nâng bằng hai
cách, và nguyên lý chênh lệch áp suất của Bernoulli là cách mang
ít tính then chốt hơn. Chuyển hướng đơn giản lại quan trọng hơn
rất nhiều. Tất cả những gì phi công cần làm là giữ đúng góc độ,
làm chệch hướng đủ các phân tử khí, khi đó lực nâng âm từ cánh
máy bay lộn ngược sẽ dễ dàng được bù lại bởi hiệu ứng cánh diều.
Anh đã viết rằng nhiệm vụ của anh không phải là nhồi nhét từ
ngữ chuyên môn cho người đọc. Anh bảo: “Nói chuyện về cách
hoạt động của động cơ phản lực (jet engine) chắc chắn là không
hề lý thú.” Nếu anh không phiền thì động cơ phản lực hoạt
động như thế nào?
Hãy tưởng tượng giải phẫu học của động cơ này như một tổ hợp
gồm các đĩa quay khớp răng được lắp ráp liên tiếp nhau – đó là
các máy nén và tuốc bin. Không khí được hút vào và đi qua các
máy nén đang quay. Nó được ép lại thật chặt, hòa lẫn với dầu hỏa
đã hóa hơi, rồi đốt cháy. Khí được đốt cháy này sau đó bùng ra
phía sau. Trước khi chúng được thoát ra, một loạt các tuốc bin
quay hấp thu một phần năng lượng. Các tuốc bin truyền động
cho các máy nén và chiếc quạt lớn ở phía trước vỏ động cơ.
Các động cơ đời trước lấy lực đẩy chủ yếu trực tiếp từ các luồng
khí nóng đang phát nổ. Ở các động cơ hiện đại, chính chiếc quạt
lớn ở phía trước đảm nhận hầu hết nhiệm vụ đó, và bạn có thể coi
động cơ này như một loại quạt kéo, quay bằng một lõi gồm các
tuốc bin và máy nén. Những động cơ mạnh nhất của Rolls-Royce,
General Electric, và Pratt & Whitney tạo ra lực đẩy vượt hơn
100.000 pound (444.822 Newton). Lực đẩy được truyền đi và
cung cấp cho các hệ thống điện, thuỷ lực, điều áp, và phá băng.
Do đó, động cơ phản lực thường được gọi là “nhà máy điện.”
Động cơ phản lực cánh quạt đẩy (turboprop, hay động cơ tuốc
bin cánh quạt) là gì?
Tất cả các máy bay thương mại hiện đại có cánh quạt đều được
cấp nguồn bởi các động cơ phản lực cánh quạt đẩy. Về bản chất
thì đây chính là máy bay phản lực. Trong trường hợp này, nhằm
đạt hiệu suất cao hơn ở các độ cao thấp hơn và trên những chặng
bay ngắn hơn, các máy nén và tuốc bin truyền động cho cánh
quạt thay vì quạt thông gió. Nói nôm na thì nó là loại cánh quạt
vận hành bởi động cơ phản lực. Không hề có pít tông nào trong
động cơ phản lực cánh quạt đẩy, và đừng nhầm lẫn “turbo” trong
chữ turbocharging (tăng áp động cơ) theo kiểu ô tô vì chúng khác
hẳn nhau. Động cơ phản lực cánh quạt đẩy có độ bền cao hơn
động cơ pít tông và cho chỉ số công suất và trọng lượng ưu thế
hơn nhiều.
Động cơ phản lực và động cơ phản lực cánh quạt đẩy đều sử dụng
nhiên liệu tuốc bin hàng không (jet fuel hay aviation turbine fuel
- ATF), về cơ bản thì nó chính là dầu hỏa tinh chế – một dạng
hoán vị của loại dầu có trong các đèn lồng cắm trại. Nó được sản
xuất theo các tiêu chuẩn khác nhau, nhưng tiêu chuẩn mà các
hãng hàng không sử dụng được gọi là Jet-A. Tuy trông như
những quả cầu lửa trên truyền hình nhưng loại nhiên liệu này lại
ổn định một cách đáng ngạc nhiên và khó bắt lửa hơn bạn nghĩ, ít
nhất là cho đến khi bị hạt hóa12. Dù bạn có ném một que diêm
cháy dở vào vũng dầu thì nó cũng không bốc cháy. (Cả Patrick
Smith lẫn nhà xuất bản đều sẽ không chịu trách nhiệm cho bất
kỳ thương tích hay hư hại nào xảy ra liên quan đến tuyên bố
này.)
12.
Fuel Atomization: trong động cơ đốt trong thì nhiên liệu được
trộn với không khí hoặc một vài chất oxy hóa khác bên trong
động cơ để việc đốt nhiên liệu xảy ra tức thời và hoàn toàn. Khi
nhiên liệu ở dạng hạt, hiệu suất của quá trình trộn là cao nhất.
Việc tạo hạt được thực hiện bằng vòi phun tia.
Tôi để ý thấy một lỗ trống dưới đuôi máy bay phả ra một loại
khói thải nào đó. Lỗ trống đó là gì?
Đó là APU13 (bộ nguồn phụ), một động cơ phản lực nhỏ dùng để
cung cấp điện và điều hòa không khí khi các động cơ chính không
chạy, hoặc bổ sung điện và điều hòa không khí khi các động cơ
chính đang chạy. Tất cả các máy bay dân dụng hiện đại đều có
một APU, và nó thường được đặt ở phía cuối thân máy bay và
dưới đuôi. Nếu bạn lên máy bay bằng loại thang ngoài trời kiểu
cũ và nghe thấy một âm thanh giống tiếng động cơ phản lực rít
lên tương đương với âm thanh của mười nghìn chiếc máy sấy tóc
thì đó chính là APU.
13. APU: viết tắt của Auxiliary Power Unit.
Nó cũng cung cấp dòng khí có áp suất cao để khởi động các động
cơ chính. Hệ thống ắc quy bên trong các máy bay lớn không đủ
mạnh để quay khởi động các máy nén của động cơ. Thay vào đó,
chúng được quay bằng không khí bơm vào từ APU. Máy bay
thương mại đầu tiên có trang bị APU như một thiết bị tiêu chuẩn
là chiếc Boeing 727, được đưa vào khai thác hồi năm 1964. Trước
thời đó, một nguồn khí bên ngoài, được gọi là “xe không khí” hay
“huffer”, được gắn vào hệ thống ống hơi của máy bay. Ngày nay
bạn có thể thấy chiếc xe đó những khi máy bay chuẩn bị cất cánh
mà APU không hoạt động, dùng để khởi động động cơ đầu tiên.
Động cơ đầu tiên đó hoạt động và trở thành nguồn khí cho (các)
động cơ còn lại.
Hầu hết các động cơ phản lực cánh quạt đẩy được khởi động bằng
điện thay vì bằng khí nén. Nếu không có APU và hệ thống ắc quy
của máy bay không đủ mạnh thì một thứ gọi là GPU14 (bộ nguồn
mặt đất) sẽ thay thế. Được kéo theo bởi một xe kéo nhỏ, GPU
trông giống như một trong những chiếc máy phát điện được sử
dụng ở các công trình bên lề đường.
14. GPU: viết tắt của Ground Power Unit.
Nếu APU cung cấp điện mặt đất thì tại sao ta thường thấy các
động cơ hoạt động khi máy bay đang chờ ở cửa nhà ga?
Bạn không thấy cảnh đó được. Máy bay hầu như không bao giờ
chạy động cơ tại cửa nhà ga. Cái bạn thấy là gió làm quay cánh
quạt cấp một. Chỉ cần một luồng gió bình thường cũng có thể làm
chiếc quạt đó quay khá nhanh. Nếu điều này tưởng là bất khả thi
vì máy bay đang đậu trước góc khuất của một tòa nhà hay đang
quay hướng khác thì đó là vì gió đang thổi từ phía sau. Ở các động
cơ mới, phần lớn lượng gió đi vào được thổi quanh lõi gồm các
máy nén và tuốc bin, do đó có thể tác động thẳng vào các cánh
quạt từ phía sau.
Vậy chính xác thì một chiếc máy bay dân dụng trị giá bao
nhiêu?
Bạn có tin rằng phải mất 200 triệu đô-la cho một chiếc Airbus
A330 hoặc Boeing 777 mới toanh? Hay 70 triệu đô-la cho một
chiếc 737 mới? Ngay cả những chiếc máy bay tầm khu vực
(regional jet)15 tí hon mà hầu hết các bạn đều không chịu nổi
cũng là những cỗ máy trị giá hàng triệu đô-la. Cái giá 20 triệu đôla là bình thường đối với một chiếc máy bay tầm khu vực hay
máy bay cánh quạt cao cấp (và bạn có thể ghi nhớ điều này để lần
sau khi bạn lên thang máy bay và bông phèng về mấy sợi dây
chun). Giá của máy bay đã qua sử dụng dao động đáng kể tùy
thuộc vào tuổi máy bay, các nâng cấp và số lần bảo trì. Phần lớn
mức giá phụ thuộc vào các động cơ, mà mỗi động cơ này khi bán
riêng lẻ đã có giá hàng triệu đô-la, và việc bảo trì: lần đại tu tiếp
theo là bao giờ, và đại tu như thế nào? Một chiếc 737 đã qua sử
dụng dựa theo đó mà có thể bán với giá 2 triệu đô-la hoặc 20 triệu
đô-la.
15.
Regional jet: loại máy bay phản lực có độ dài chuyến bay ngắn
(dưới 3 giờ, short-haul) và trung bình (từ 3 đến 6 giờ, medium-
haul)
Các hãng máy bay không thực sự sở hữu tất cả số máy bay của họ,
hay đôi khi thậm chí là không sở hữu bất kỳ máy bay nào. Họ
thuê chúng từ các ngân hàng và các công ty cho thuê máy bay,
trả tiền định kỳ chẳng khác gì cách bạn mua ô tô vậy. Không có
cách nào khác để kham nổi những chiếc máy bay như vậy.
Có chênh lệch về chất lượng giữa máy bay Boeing và Airbus
không? Tôi thấy sản xuất máy bay Airbus có vẻ rẻ tiền hơn.
Tôi ghét câu hỏi này, và nó xuất hiện liên tục dưới nhiều hình
thức khó xử khác nhau. Cách nói “được sản xuất rẻ tiền hơn” là
coi thường mức độ phức tạp của một chiếc máy bay dân dụng,
bất kể ai là nhà sản xuất. Không có máy bay nào được sản xuất
một cách rẻ mạt. Máy bay Boeing và Airbus đương nhiên là khác
nhau ở nhiều khía cạnh. Chúng được sản xuất theo những triết lý
xây dựng và vận hành khác nhau, và mỗi loại đều có những điểm
dễ chịu hoặc khó chịu khác nhau. Và đôi khi là cả những điều gây
tranh cãi: Airbus từng bị chỉ trích vì dựa dẫm vào điều khiển tự
động mà trong một số trường hợp phi công lại không thể can
thiệp. Về phần mình, Boeing cũng gặp rắc rối do trục trặc cánh lái
đuôi dẫn đến ít nhất hai vụ tai nạn chết người của máy bay 737
trong những năm 1990. Tuy vậy, vẫn chưa có thống kê về sự
chênh lệch độ an toàn nào đáng để viện dẫn ở đây, và các quan
điểm về việc máy bay nào “tốt hơn” phải dựa trên những chi tiết
cơ bản của các hệ thống – thứ chi tiết sẽ khiến bạn (và tôi) ngáp
ngắn ngáp dài, và tự chúng chẳng hề phát ra những tiếng nổ, lách
cách, kẽo kẹt, hay bất kỳ âm thanh nào khác mà hành khách có
thể nghe được. Với các phi công thì mấu chốt là ở sở thích cá
nhân và, về mặt nào đó, là phong cách, hơn là ở chất lượng hay
thiếu chất lượng. Cũng chẳng khác mấy chuyện đem so sánh
Apple với PC16; mỗi loại đều có kẻ ghét người thương.
16.
PC (Personal Computer): máy tính cá nhân, thường dùng với
nghĩa là những máy tính phục vụ mục đích cá nhân với bộ vi xử
lý dòng Intel x86, thường chạy hệ điều hành (nhưng không giới
hạn trong) Windows, đối nghịch với dòng máy Macintosh của
Apple.
Tôi có nên chọn một loại máy bay nhất định nào đó để di
chuyển nhanh hơn không?
Tốc độ ở trên cao được biểu thị bằng số Mach. Mach là tốc độ âm
thanh (đặt theo tên của Ernst Mach17), và số Mach là tỷ lệ phần
trăm so với tốc độ đó. Các máy bay đường dài bay nhanh hơn một
chút so với các máy bay quãng ngắn. Chiếc 747, A380, hoặc 777
sẽ bay ở tốc độ từ 0,84 đến 0,88 Mach (84% đến 88% tốc độ âm
thanh). Với các máy bay nhỏ hơn như 737 hay A320, tốc độ là từ
0,74 đến 0,80 Mach. Ở chiếc 767 mà tôi lái thì tốc độ khi máy bay
đã đạt độ cao ổn định là từ 0,77 đến 0,82 Mach. Tốc độ tối ưu cho
mỗi chuyến bay là khác nhau. Nếu máy bay đúng giờ, hoặc nếu
tiêu hao nhiên liệu là một yếu tố thì chúng tôi sẽ lập kế hoạch bay
ở bất kỳ số Mach nào đạt hiệu suất nhiên liệu tốt nhất. Nếu chúng
tôi bị muộn giờ và miễn là nhiên liệu không phải là vấn đề thì có
thể chúng tôi sẽ bay nhanh hơn chút đỉnh. Chúng tôi tiếp nhận
số Mach được khuyến nghị như là một phần của kế hoạch bay.
17.
Ernst Mach (1838 – 1916): nhà vật lý học, nhà triết học người
Áo. Ông đã thực hiện những nghiên cứu quan trọng về chuyển
động ở tốc độ siêu âm.
Đối với một chặng bay dài 13 giờ từ New York đến Tokyo thì
những chênh lệch này rất quan trọng. Số Mach lớn hơn một chút
sẽ tiết kiệm được vài phút bay. Nhưng với các chuyến bay ngắn
thì lượng tiết kiệm được lại không đáng kể, và chẳng có lý gì phải
chọn máy bay này thay vì máy bay khác chỉ để đúng giờ. Trong
mọi trường hợp, các ràng buộc của kiểm soát không lưu (ATC) là
yếu tố chủ chốt quyết định tốc độ chứ không phải là năng lực của
máy bay. Đặc biệt là với các chuyến bay ngắn, nhân viên kiểm
soát thường xuyên đề nghị phi công tăng tốc hoặc giảm tốc.
Ranh giới giữa hạ thanh và siêu thanh, tức là tốc độ mà hầu hết
các máy bay khi bay bằng gần đạt đến, không phải là chuyện tầm
phào về khí động học. Trong một phiên bản đơn giản của tiên đề
về tốc độ ánh sáng của Einstein, năng lượng tiêu hao tăng đột
ngột khi vượt qua rào cản âm thanh. Mặc dù không hoàn toàn là
trở ngại về mặt vật lý, nhưng đây lại là vấn đề to tát đối với túi
tiền. Chuyến bay siêu thanh đòi hỏi một loại cánh máy bay hoàn
toàn khác biệt, và mức tiêu hao nhiên liệu tăng chóng mặt. Bạn
còn nhớ chiếc Concorde chứ? Không hẳn là vụ tai nạn thảm khốc
gần Paris vào năm 2000 đã đẩy nhanh quyết định ngừng khai
thác loại máy bay này, mà đúng hơn là chi phí vận hành kinh
khủng của nó. Vì những lý do này, mặc cho tất cả các tiến bộ công
nghệ khác mà chúng ta từng chứng kiến thì tốc độ đường trường
của máy bay thương mại không thay đổi mấy so với thời kỳ đầu.
Thậm chí, máy bay dân dụng thế kỷ 21 bay còn chậm hơn tí xíu
so với máy bay 30 năm trước.
Những máy bay nào có tầm bay dài nhất?
Chiếc Boeing 777-200LR có thời gian bay dài nhất trong số tất cả
các máy bay thương mại– khoảng 20 giờ, đi được khoảng 9.000
hải lý (16.668 km) và sau đó thêm vài hải lý mà không cần tiếp
nhiên liệu. Hầu hết các cặp thành phố lớn trên thế giới đều kết
nối được với nhau bằng chiếc phi cơ dài chuyến đáng kinh ngạc
này (xem phần các chuyến bay dài nhất, trang 316). Đứng thứ
nhì là chiếc A340-500, do Emirates và Singapore Airlines khai
thác đầu tiên. Các biến thể của chiếc A380, 777, và 747 có năng
lực tương đương nhưng hơi kém hơn một chút.
Cần hiểu rằng sức bền, nghĩa là hàng giờ đồng hồ trên trời, là
thước đo chính xác hơn để đo quãng đường bay, chứ không phải
số hải lý, và sức bền phụ thuộc vào độ cao, tốc độ bay bằng, và các
yếu tố khác. Ngoài ra, kích thước của máy bay không phải lúc nào
cũng là chỉ số đánh giá đúng được máy bay có thể bay bao lâu
(hoặc bao xa). Ví dụ rõ ràng nhất có lẽ là chiếc Airbus A300 trước
đây, vốn được thiết kế chuyên dành cho các chuyến bay ngắn
hoặc trung bình dù nó có thể chứa được 250 người. Trong khi đó,
các chuyên cơ chín chỗ lại có thể bay liên tục trong vòng 11 giờ.
Cũng không công bằng khi kết luận đơn giản rằng máy bay này
có tầm bay xa hơn máy bay khác. Máy bay Airbus A340 có bay xa
hơn Boeing 747 không? Chiếc thì có, chiếc thì không. Các lựa
chọn kỹ thuật chẳng hạn như loại động cơ và số bể chứa nhiên
liệu phụ góp phần quyết định sức bền. Hãy để ý các con số sau
dấu gạch ngang. Không chỉ có một loại A340; mà danh sách bao
gồm A340-200, -300, -500, và -600. Boeing thì có những chiếc
-200, -400, -800, -LR (long range – đường dài), -ER (extended
range – mở rộng tầm bay), và hơn thế nữa. Và con số đi sau lớn
hơn không phải là tất cả. Chiếc A340-500 nhỏ hơn A340-600,
nhưng bay được quãng đường dài hơn. Chiếc 777-200LR bay
được lâu hơn so với chiếc 777-300ER vốn to hơn đáng kể. Bạn vẫn
đang hiểu những gì tôi trình bày chứ? Nếu bạn thích đồ thị và
biểu đồ đầy những dấu hoa thị và chữ in tí hon thì xin mời truy
cập trang web của các nhà sản xuất và tự do tìm hiểu
Máy bay nặng bao nhiêu?
Có các giới hạn về tải trọng đối với những chế độ vận hành khác
nhau, bao gồm giới hạn để lăn bánh, cất cánh, và hạ cánh. Trọng
lượng cất cánh tối đa của chiếc Airbus A380 là hơn một triệu
pound18 (453 tấn). Chiếc Boeing 747 có thể đạt trọng lượng tối đa
là 875.000 pound (397 tấn). Với chiếc 757 là 250.000 pound (113
tấn), và với chiếc A320 hoặc 737 là khoảng 170.000 pound (77
tấn). Một chiếc máy bay cánh quạt hoặc máy bay tầm khu vực
chứa 50 khách có thể đạt trọng lượng tối đa khoảng 60.000
pound (27 tấn). Đó là các con số tối đa. Trọng lượng cất cánh thực
cho phép còn tùy thuộc vào thời tiết, chiều dài đường băng, và
các yếu tố khác.
18.
1 pound (1 cân Anh) là một đơn vị đo khối lượng truyền thống
của Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và một số quốc gia khác. Hiện nay
giá trị được quốc tế công nhận chính xác là: 1 pound =
0,45359237 kg
Tất nhiên là người ta không buộc hành khách phải tiết lộ số đo
vòng bụng của mình, vì vậy, thay vào đó, các hãng hàng không
áp dụng cách tính ước lượng tiêu chuẩn cho hành khách và hành
lý. Các con số – 190 pound (86 kg) mỗi người (bao gồm hành lý
xách tay) và 30 pound (13,5 kg) mỗi kiện hành lý ký gửi – được
điều chỉnh cho cao hơn một chút vào mùa đông vì có nhiều quần
áo hơn (làm ơn đừng hỏi tôi về các chặng bay giữa hai vùng khí
hậu khác nhau). Trọng lượng hành khách và hành lý lên máy bay
được cộng vào một con số khác gọi là trọng lượng vận hành cơ
bản (BOW-basic operating weight), đây là con số cố định đại diện
cho trọng lượng của bản thân chiếc máy bay, bao gồm tất cả các
trang thiết bị, đồ đạc, vật phẩm, và phi hành đoàn. Sau khi cộng
thêm nhiên liệu và hàng hóa, kết quả là tổng trọng lượng “trên
sân” hay lăn bánh. Nhiên liệu dùng khi lăn bánh được trừ đi để ra
kết quả là trọng lượng cất cánh.
Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng trong trường hợp một
chiếc 747 kín chỗ, 400 hành khách và hành lý của họ – tổng cộng
khoảng 75.000 pound (khoảng 34 tấn) – chỉ chiếm khoảng 10%
tổng tải trọng chuyến bay. Không phải hành khách và tư trang
của họ mà chính nhiên liệu mới là yếu tố nổi trội hơn, đôi khi
chiếm một phần ba tổng tải trọng máy bay hoặc hơn thế nữa. Vì
vậy, các phi công tính toán trọng lượng nhiên liệu theo đơn vị
pound chứ không phải gallon 19. Tất cả các khâu từ nạp nhiên
liệu ban đầu cho đến tiêu hao nhiên liệu trong quá trình bay đều
được cộng hoặc trừ theo trọng lượng chứ không phải theo dung
tích.
19. Gallon: đơn vị đo lường thể tích chất lỏng chủ yếu được dùng ở
Mỹ và cũng thường được sử dụng ở nhiều nước nói tiếng Anh
khác. 1 gallon tương đương với 3,78 lít ở Mỹ.
Cả trọng lượng và sự phân bổ tải trọng đều quan trọng. Trọng
tâm của máy bay thay đổi khi nhiên liệu được tiêu thụ, được tính
toán trước chuyến bay và phải giữ được trong mức giới hạn để cất
cánh và hạ cánh. Các phi công được đào tạo những kiến thức về
tải trọng và cân bằng, nhưng công việc khó khăn nhất lại do
những người lập kế hoạch trọng tải và điều vận đảm nhiệm.
Một hôm chúng tôi bay từ Phoenix và nhiệt độ cao nhất là 40,5 độ
C. Một vài hành khách bị bỏ lại. Hãng hàng không bảo chúng tôi
rằng trời quá nóng nên máy bay không thể bay khi kín chỗ ngồi.
Không khí nóng loãng hơn không khí lạnh, ảnh hưởng tiêu cực
đến cả lực nâng và hoạt động của động cơ. Quá trình cất cánh
trên đường băng sẽ lâu hơn, góc bay sẽ thấp hơn, và trong nhiệt
độ rất cao thì máy bay có thể không còn đáp ứng được các giới
hạn về an toàn của một đường băng nhất định – các tham số độ
dốc bay lên20 và khoảng cách cần thiết để dừng lại nếu hủy cất
cánh. Trọng lượng tối đa được phép cho mỗi lần cất cánh được
xác định tùy theo thời tiết và độ dài đường băng. Bay chặng ngắn
với nhiên liệu hạn chế sẽ không phải là vấn đề, nhưng các bể
nhiên liệu đầy hoặc trọng tải lớn có thể vượt quá những giới hạn,
do đó đôi khi hàng hóa hoặc hành khách phải bị bỏ lại.
20.
Độ dốc bay lên (Climb gradient) là tỉ số giữa độ cao đạt được và
độ dài phương ngang đã di chuyển để đạt độ cao đó. Độ dốc bay
lên 6% nghĩa là cứ mỗi 1m độ cao đạt được thì máy bay đã di
chuyển trên 100m đường băng. Các máy bay dân dụng cần đạt
đến một độ dốc tối thiểu mới có thể cất cánh hoặc hạ cánh. Nếu
không phải thực hiện các thủ tục hủy cất cánh.
Thêm vào đó, một số máy bay có nhiệt độ vận hành tối đa được
quy định trong hướng dẫn bay của chúng. Đến một ngưỡng nhất
định, các bất lợi về khí động lực trở nên quá mức và các bộ phận
bắt đầu bị quá nhiệt. Các giới hạn này thường khá cao, khoảng 50
độ C (122 độ F) nhưng đôi khi máy bay phải tiếp đất ngay lập tức.
Ngoài nhiệt độ ra còn có độ cao. Càng lên cao thì không khí càng
loãng, làm giảm hiệu suất và công suất khí động lực của động cơ.
Các sân bay ở vùng cao thường tính toán đến bất lợi về trọng tải
khi cất cánh. Mexico City nằm ở độ cao 7.400 bộ (2,255tkm) và là
một ứng viên nặng ký, cũng như Denver21, Bogota22, Cuzco23, và
nhiều sân bay khác. Trong nhiều năm trời, trước sự ra đời của các
máy bay có hiệu năng cao hơn, chuyến bay New York–
Johannesburg của hãng South African Airways chỉ có thể bay liên
tục theo một chiều, và đây là một phần lý do. Chiều bay sang phía
đông từ sân bay JFK tận dụng lợi thế đường băng dài ngang mực
nước biển. Đối với chiều về, độ cao 5.500 bộ (1,676tkm) so với
mực nước biển của Johannesburg trở thành bất lợi. Đổ đầy các bể
nhiên liệu đồng nghĩa với việc phải bỏ lại hành khách hoặc hàng
hóa, vì vậy chuyến bay sẽ cần tiếp nhiên liệu ở quốc đảo Cape
Verde24 hoặc Dakar25.
21.
Denver: thủ phủ của tiểu bang Colorado, Mỹ, nằm ở độ cao
1.610 mét so với mực nước biển.
22.
Bogota: thủ đô nước Columbia, là thủ đô cao thứ ba ở Nam Mỹ
với độ cao 2670 mét so với mực nước biển.
23.
Cuzco: thành phố nằm ở đông nam Peru, cao 3400 mét so với
mực nước biển.
24.
Cape Verde (Cáp-Ve hay Mũi Xanh): quần đảo gồm 10 đảo san
hô nằm ở trung tâm Đại Tây Dương.
25. Dakar: thủ đô Senegal.
Một khi đã ở trên không trung, ban đầu máy bay có thể quá nặng
nên không thể đạt ngay đến độ cao có hiệu suất nhiên liệu cao
nhất và sẽ “bay leo từng bậc” (step climb) khi đốt cháy dần nhiên
liệu. Máy bay có thể bay cao đến đâu tại mỗi thời điểm nhất định
là tùy thuộc không chỉ vào khả năng vật lý có thể đạt đến độ cao
nào, mà còn ở việc duy trì các giới hạn thất tốc khi nó đạt đến độ
cao đó.
Tại sao một số máy bay để lại những vệt trắng trên trời?
Các vệt hơi được hình thành khi khói thải ẩm từ động cơ phản lực
đông đặc lại thành các tinh thể băng trên tầng khí quyển cao,
lạnh và khô - không giống như làn khói mỏng bạn phả ra vào
những ngày lạnh. Có thể nói các vệt hơi này chính là mây. Nghe
có vẻ lạ nhưng vệt hơi nước chính là sản phẩm phụ của sự đốt
cháy bên trong các động cơ phản lực, nơi khí ẩm thoát ra. Vệt hơi
có được hình thành hay không phụ thuộc vào độ cao và cấu tạo
của bầu không khí xung quanh – chủ yếu là nhiệt độ và một phần
cấu thành nữa gọi là áp suất hơi nước.
Tôi từ chối tiêu tốn số trang quý giá để bàn về thuyết âm mưu
mang tên “vệt hơi hóa học.” Nếu bạn hiểu tôi đang nói về cái gì và
muốn tranh luận về việc này thì xin mời gửi email cho tôi. Còn
nếu bạn không hiểu tôi đang nói về cái gì thì cũng xin chớ lấy làm
lo lắng.
Có rất nhiều tranh cãi về tác động của việc di chuyển bằng đường
hàng không đối với môi trường, đặc biệt là vấn đề phát thải. Có
thể dung hoà giữa tần suất bay và ý thức bảo vệ môi trường được
hay không?
Đây là một câu hỏi khó đối với tôi. Có lẽ tôi là một trong những
người bảo vệ môi trường nhất, cố gắng hết sức tuân theo quy tắc
3T: tiết giảm, tái sử dụng, tái chế. Tôi không sở hữu xe hơi, và
phần lớn đồ nội thất trong căn hộ của tôi đều được thu nhặt từ
vỉa hè và tự tân trang. Tôi thay thế các bóng đèn nóng sáng bằng
đèn huỳnh quang compact. Thế rồi tôi đi làm và xả hàng trăm
tấn cac-bon vào khí quyển. Tôi có phải là một kẻ đạo đức giả hay
là gì đây?
Ngành hàng không thương mại đang ngày càng bị công kích
mạnh mẽ vì những gì người ta quan sát thấy về sự thiếu thân
thiện với môi trường của nó. Đặc biệt là ở châu Âu, các bên có
tiếng nói quyền lực đang vận động hành lang nhằm cắt giảm việc
di chuyển bằng đường hàng không, đề xuất áp thuế cao hơn và
các biện pháp cản trở khác nhằm hạn chế tăng trưởng ngành
hàng không và ngăn cản mọi người sử dụng phương tiện hàng
không. (Người ta có hẳn một cụm từ tiếng Anh đầy xúc phạm là
“binge flyer”26 để miêu tả những người châu Âu lợi dụng vé máy
bay giá siêu rẻ để liên tục đi du lịch ngắn ngày.) Vẫn chưa kết
luận được rằng sự phản đối này có bao nhiêu phần là công bằng
và bao nhiêu phần thực ra chỉ để phỉ báng ngành hàng không.
Ngày nay các hãng hàng không là các đối tượng dễ bị nhắm đến,
nhưng trong tương quan các mối đe dọa đến môi trường thì có lẽ
họ đã bị kết tội hơi bất công.
26. Những người cuồng bay, nghiện bay - ND.
Tôi là người đầu tiên đồng ý rằng các hãng hàng không cần chịu
phần trách nhiệm của họ về tác động sinh thái mà họ gây ra,
nhưng điều đó chính là vấn đề: tính trên toàn cầu, ngành hàng
không thương mại chỉ chiếm 2 phần trăm tổng lượng phát thải
nhiên liệu hóa thạch. Có thể kể đến các tòa nhà thương mại, vốn
đã thải ra một tỷ lệ phần trăm các chất thải ô nhiễm gây biến đổi
khí hậu lớn hơn nhiều so với các máy bay thương mại, vậy mà
chẳng có mấy lời phản đối hay các phong trào có tổ chức nhằm
yêu cầu họ thân thiện hơn với môi trường. Với ô tô cũng tương tự
như vậy. Người Mỹ có thói quen phụ thuộc vào ô tô rất trầm
trọng, tuy nhiên chẳng mấy khi họ bị mặc cảm tội lỗi về chuyện
đó. Các hãng hàng không của Mỹ đã tăng cường hiệu suất sử
dụng nhiên liệu thêm 70% trong vòng 30 năm qua, chỉ tính từ
năm 2001 đã là 35%, phần lớn qua việc ngừng khai thác máy bay
hao nhiên liệu. Trong khi đó, hiệu suất nhiên liệu trung bình của
ngành sản xuất ô tô Mỹ vẫn dậm chân tại chỗ trong vòng ít nhất
ba thập kỷ qua.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là ở chỗ thước đo chuẩn nhất cho
tác động của ngành hàng không lên môi trường không chỉ nằm ở
các con số phần trăm. Đơn cử là khí thải từ máy bay – gồm không
chỉ khí carbon dyoxide mà cả nitơ ôxit, bồ hóng, và các hạt gốc
sunphat – được đưa thẳng vào tầng đối lưu, nơi mà tác động của
chúng vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Mặt khác, các chuyên gia
cho rằng sự hiện diện của các vệt hơi nêu ở phần trước nhân rộng
sự hình thành mây ti tầng. Có thể nói rằng mây sinh ra mây, và
lượng mây ti tầng bao phủ đã tăng 20% tại một số hành lang bay
nhất định, từ đó chi phối nhiệt độ và lượng giáng thủy27. Theo
kinh nghiệm, các chuyên gia đề xuất nhân con số 2% nhiên liệu
hóa thạch nêu trên với 21⁄2 để ra con số chính xác hơn về tổng tỷ
lệ đóng góp của toàn ngành vào lượng khí nhà kính. Theo công
thức này, các hãng hàng không hiện nay đóng góp khoảng 5%
vào vấn đề.
27.
Lượng giáng thủy bao gồm tất cả lượng nước ngưng đọng từ
hơi nước trong bầu không khí, do mưa, mưa phùn, sương giá,
mưa tuyết, tuyết, mưa đá, v.v
Con số này vẫn chưa phải là lớn, nhưng ngành hàng không
thương mại đang tăng trưởng nhanh chóng trên toàn thế giới.
Chỉ riêng Trung Quốc đang dự định xây dựng hơn 40 sân bay lớn.
Ở Mỹ, lượng hành khách hàng năm, vốn đã xấp xỉ con số một
triệu, được dự đoán sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025, là thời điểm
mà lượng khí nhà kính từ máy bay sẽ tăng gấp năm lần so với
mức độ hiện tại. Nếu chúng ta thực sự bắt tay vào việc cắt giảm
bớt lượng khí thải carbon từ các nguồn khác như bao lâu nay đã
hứa hẹn thì tỷ lệ phần trăm phát thải từ ngành hàng không sẽ
tăng vọt.
Nguyên nhân của tất cả những con số tăng trưởng này là vì đi
máy bay khá rẻ và dễ dàng. Điều này có thể thay đổi. Di chuyển
bằng đường hàng không sẽ luôn là lựa chọn cần thiết để tiết
kiệm, nhưng những kiểu bay mà chúng ta vừa trở nên quen
thuộc có thể sẽ không phải lúc nào cũng khả thi nếu giá dầu tăng
mạnh như nhiều người dự đoán. Chúng ta vẫn sẽ có máy bay,
nhưng khi vé máy bay tăng giá thì những người cuồng bay sẽ
không còn tồn tại nữa.
Một vài hãng hàng không đang thử nghiệm các phương án sử
dụng nhiên liệu sinh học thay cho nhiên liệu cho máy bay phản
lực hiện nay. Air Canada, Qantas, United, và All Nippon Airways
nằm trong số các hãng đã khai thác các chuyến bay có sử dụng
một phần hoặc hoàn toàn nhiên liệu sinh học. Trong lúc đó,
nhiều hãng hàng không cho phép hành khách mua phát thải
carbon28 chi phí thấp khi đặt vé trực tuyến. Hay với một mức phí
nhỏ, các tổ chức bên thứ ba sẽ bán lượng phát thải CO2 ước lượng
cho chuyến bay của bạn và đầu tư số tiền thu được vào các dự án
năng lượng bền vững.
28.
Mua bán phát thải: thuộc Nghị định thư Kyoto, đây là biện
pháp để giảm lượng khí thải carbon nhằm ngăn chặn biến đổi khí
hậu toàn cầu. Mỗi quốc gia/tổ chức có một “hạn mức” phát thải
carbon nhất định. Quốc gia/tổ chức nào có lượng khí thải carbon
xả ra dưới hạn mức cho phép có thể bán “số dư” cho quốc gia/tổ
chức khác.
Giờ thì hãy tạm quên đi chuyện phát thải và cùng bàn về các loại
ô nhiễm khác:
Một điều luôn khiến tôi bị sốc là lượng chất thải rắn – bao gồm túi
nilông, giấy, xốp cách nhiệt Styrofoam, và nhôm – do các hãng
hàng không và khách hàng của họ thải ra. Hãy cứ tính số lượng
khay, cốc, lon, giấy gói bánh kẹo, và sách báo bị bỏ lại sau mỗi
chuyến bay thông thường, rồi nhân với khoảng 40.000 chuyến
bay thương mại hàng ngày trên toàn thế giới.
Các biện pháp đơn giản sẽ có hiệu quả lâu dài đối với việc tiết
giảm và tái sử dụng. Chẳng hạn như, tại sao không cho hành
khách lựa chọn có lấy cốc đi kèm với đồ uống của họ hay không?
Lon nước ngọt hay nước ép hoa quả của tôi luôn đi kèm với một
chiếc cốc được đặt vào khay của tôi trước khi tôi kịp từ chối, dù
chuyện uống trực tiếp từ lon là hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Và chuyện đóng gói đồ ăn máy bay (phần nào vẫn còn cho đến
nay) chẳng là gì ngoài chuyện cực kỳ lãng phí. Một suất ăn thông
thường hay một món quà vặt trên máy bay chứa nhiều chất dẻo
chế xuất từ dầu hỏa hơn cả lượng thức ăn thực sự được cung cấp.
Không phải tất cả các hãng hàng không đều lờ đi vấn đề về rác.
Chương trình tái chế trên máy bay của hãng Virgin Atlantic đề
nghị hành khách trả lại các chai thủy tinh và lon nước, và để lại
báo trên ghế của họ để tái chế. Với American Airlines, các lon
nước được tái chế, và số tiền thu được dùng để làm từ thiện, còn
rác thải từ các chuyến bay nội địa thì được phân loại và tái chế
sau khi hạ cánh. Hãng Delta tái chế tất cả các sản phẩm làm từ
nhôm, nhựa dẻo, và giấy từ các chuyến bay tại cảng trung
chuyển quốc tế Atlanta của mình, tiền thu được sẽ chuyển đến tổ
chức Habitat for Humanity. Tuy nhiên, dù một số ít các hãng
đang đi tiên phong trong phong trào này thì phần lớn nỗ lực của
toàn ngành đều khá nửa vời.
Máy bay trong Nghệ thuật, Âm nhạc, và Điện ảnh
Di chuyển bằng đường hàng không quả là một điều rất trực quan.
Lúc nào đó, bạn hãy xem tấm ảnh nổi tiếng chụp chuyến bay đầu
tiên của anh em nhà Wright vào năm 1903. Bức ảnh do một
người ngoài cuộc tên là John T. Daniels chụp lại và từ đó đã được
sao chép lại hàng triệu lần, có lẽ là bức ảnh đẹp nhất của
iconography thế kỷ 20. Daniels được Orville Wright giao trách
nhiệm điều khiển một chiếc máy ảnh kiểu hộp thấu kính 5 x 7
phủ vải đặt trên bãi biển Outer Banks29. Anh ta được hướng dẫn
phải nắm lấy ống bóp đóng màn trập nếu “có điều gì thú vị” xảy
ra. Máy ảnh hướng lên vùng trời – nếu có thể gọi độ cao 3-4 mét
như vậy – ở đó, nếu theo đúng kế hoạch thì máy bay của anh em
nhà Wright, chiếc Flyer, sẽ lần đầu tiên bay lên không trung.
29.
Là một chuỗi bán đảo và các đảo chắn dài 200km nằm ngoài
rìa bờ biển Bắc Carolina và một phần Virginia. Nơi anh em nhà
Wright thực hiện chuyến bay lịch sử là tại Kill Devil Hills, gần thị
trấn ven biển Kitty Hawk.
Mọi thứ thực sự đã theo đúng kế hoạch. Cỗ máy kỳ cục xuất hiện
trong tầm ngắm và Daniels siết ống bóp. Chúng ta thấy Orville
chỉ như một thanh gỗ màu đen, đang phó mặc số phận cho chiếc
máy bay hơn là điều khiển nó. Phía dưới ông, Wilbur bước theo,
như thể để tóm bắt hoặc thuần phục cỗ máy kỳ lạ trong trường
hợp nó quyết định chao liệng hay lao xuống đất. Ta không thể
thấy mặt họ; vẻ đẹp của tấm ảnh chủ yếu nằm ở chỗ không cần
thiết đó. Bức ảnh chứa đầy hứa hẹn và đồng thời cũng gợi nên
cảm giác cô đơn cùng cực. Tất cả tiềm năng của ngành hàng
không được tóm gọn trong cú nháy màn trập đó; nhưng ta cũng
thấy trong bức ảnh thực sự chỉ là hai anh em đầy hào hứng trong
một thế giới như thể trống trơn, một người đang bay, người kia
ngắm nhìn. Ta nhìn thấy hàng thế kỷ của trí tưởng tượng – khát
khao muôn thuở được bay – khi đơm hoa kết trái thì lại tiêu điều,
cô độc và gần như hoàn toàn vô danh.
Tôi có rất nhiều sách viết về máy bay. Phải công nhận rằng
ngành xuất bản về hàng không lại nằm ở trình độ thẩm mỹ thấp
hơn so với những gì bạn có thể tìm thấy trong những kệ sách
dành cho nghệ thuật hay khoa học. Các cuốn sách chứa đầy
những hình ảnh mỹ miều: những tấm ảnh về càng hạ cánh, đuôi
và cánh máy bay ở những góc chụp đầy quyến rũ. Với ô tô, xe
máy và súng đạn cũng tương tự như vậy – một kiểu định hình
tính dục đối với các món đồ máy móc. Thật dễ dàng và rẻ tiền, và
hoàn toàn đi nhầm hướng. Không may là cho đến nay thì sự tôn
trọng dành cho máy bay vẫn chưa thể vượt qua ngưỡng thần
tượng kiểu mới lớn này.
Theo tôi, cái mà ngành hàng không cần là một giao điểm tín
ngưỡng nào đó. Chiếc Concorde và 747, với sự kết hợp thông thái
giữa các tri giác của bán cầu não trái và phải, đã gần đạt được
điều đó. Tuy vậy, còn lâu ta mới thấy bức tranh thạch bản
(lithograph) được lộng khung nào của chiếc 747 trong các căn
gác ở SoHo30 hay khu nhà giàu ở Boston, treo bên cạnh những
bức hình lãng mạn hóa của tòa nhà Chrysler hay cây cầu
Brooklyn31. Và tôi vẫn sẽ cảm thấy không được đánh giá đúng
cho đến khi ngành hàng không thương mại có được một bộ phim
tài liệu dài 10 tập với tông màu sepia của Ken Burns32.
30. “South of Houston Street” là vùng lân cận Hạ Mahattan, thành
phố New York, trong lịch sử đương đại được dư luận chú ý đến
bởi đây là nơi có nhiều căn hộ chung cư cũng như các phòng triển
lãm của các họa sĩ, ngày nay là nơi có nhiều cửa hàng và chuỗi
cửa hàng bán đồ thời trang hàng hiệu nội địa và quốc tế.
31. Cây cầu Brooklyn là một trong những cây cầu treo lâu đời nhất
Hoa Kỳ. Hoàn thành vào năm 1883, cây cầu kết nối hai khu của
Thành phố New York là Manhattan và Brooklyn bị chia cắt bởi
Sông East. Với trụ nhịp chính dài 486 mét, nó là cây cầu treo dài
nhất thế giới cho đến năm 1903 và là cây cầu treo đầu tiên làm
bằng thép. Kể từ khi thông xe, nó đã trở thành một phần biểu
tượng của New York. Cây cầu đã được chỉ định là Di tích Lịch sử
Quốc gia vào năm 1964.
32.
Kenneth Lauren “Ken” Burns (1953) là đạo diễn và nhà sản
xuất phim tài liệu người Mỹ, được biết đến với phong cách sử
dụng các đoạn phim thô và hình ảnh đã có sẵn, ông đã 2 lần được
đề cử giải Oscar và đã giành được giải thưởng EMMY cùng nhiều
danh hiệu khác.
Còn hiện tại, khi nhắc về văn hóa đại chúng thì điện ảnh là thứ ta
nhắc đến đầu tiên. Có thể so sánh buổi bình minh của Kỷ nguyên
Máy bay Phản lực song hành với tiềm năng mới được phát hiện
của Hollywood vào những năm 1950 – tuốc bin và ống kính
CinemaScope33 là những công cụ nguyên mẫu đầy hứa hẹn.
Hàng thập kỷ sau sự cộng sinh thân thiết vẫn tồn tại: rất nhiều
phim được chiếu trên máy bay, và máy bay xuất hiện trong rất
nhiều phim. Tai nạn máy bay vẫn là kịch bản đơn giản và đương
nhiên, và hơn 30 năm sau chúng ta vẫn bật cười trước những câu
thoại của Leslie Nielsen34 trong phim Airplane35. Nhưng tôi chưa
bao giờ thích phim làm về máy bay. Với hầu hết chúng ta, máy
bay vẫn chỉ là công cụ để đạt được mục đích của mình, và thường
thì là phương tiện trong những chuyến đi hấp dẫn, tai hại, hoặc
nếu không thì cũng là những chuyến đi đổi đời mà ta dấn thân
vào. Và chính những hình ảnh thoáng qua lén lút, ngẫu nhiên sẽ
nắm bắt tốt nhất được điều này – gợi liên tưởng nhiều hơn bất kỳ
kịch bản phim thảm họa bom tấn nào: chiếc máy bay cánh quạt
thả gã điệp viên xuống chiến trường ác liệt nào đó, hoặc đưa vị
đại sứ và gia đình ngài chạy thoát khỏi chiến trận; vẻ đẹp của
hình ảnh đuôi máy bay B-52 lao xuống bờ sông trong phim
Apocalypse Now36; cuốn vé máy bay Air Afrique trong tay chàng
diễn viên trẻ tuổi Jack Nicholson37 trong phim The Passenger38;
những chiếc phi cơ Tupolev của Ba Lan gầm rú trong cảnh nền
phim The Decalogue IV39 của Krzysztof Kieslowski40.
33.
CinemaScope là dòng ống kính anamorphic (tiệm biến) được
sử dụng từ năm 1953- 1967 để quay phim màn ảnh rộng, về mặt
lý thuyết cho phép tạo ra hình ảnh với tỷ lệ 2.66:1.
34.
Leslie William Nielsen (1926 - 2010) là diễn viên hài và nhà
sản xuất phim người Cananda. Ông đã diễn hơn 220 nhân vật
trong hơn 100 phim điện ảnh và 150 chương trình truyền hình,
đặc biệt được biết đến qua bộ phim Máy bay và series Họng súng
vô tình (Naked Gun). Ông được ghi dấu tại Đại lộ Danh vọng của
Hollywood và Canada.
35.
‘Máy bay’ là bộ phim hài nhại lại dòng phim về thảm họa do
hai anh em nhà Zucker và Jim Abrahams viết kịch bản và làm đạo
diễn, được Hãng phim Paramount phát hành. Bộ phim được tờ
Empire bình chọn là 1 trong 500 Phim Vĩ Đại Nhất Mọi Thời Đại.
36.
Apocalypse Now là một bộ phim Mỹ đặt trong bối cảnh chiến
tranh Việt Nam, đoạt giải cành cọ vàng của Liên hoan phim
Cannes và được đề cử giải Oscar cho Phim hay nhất và Giải Quả
cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất.
37.
John Joseph Nicholson (1937) là một trong những diễn viên
xuất sắc nhất trong lịch sử Hollywood và nổi tiếng với việc vào
vai những nhân vật bị thần kinh hoặc gặp vấn đề về tâm lý. Ông
đã được đề cử giải Oscar Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất 12 lần và đã giành chiến thắng
3 lần. Nicholson được biết đến nhiều nhất qua vai diễn của ông
trong các phim Bay trên tổ chim cúc cu, Batman.
38.
Bộ phim do Michelangelo Antonioni đạo diễn năm 1975, nói
về một ký giả người Mỹ gốc Anh cải trang làm một thương nhân
đã chết trong khi làm phim tài liệu ở Chad, không ngờ rằng người
đã chết chính là một trùm buôn vũ khí đang liên hệ với quân nổi
dậy trong một cuộc nội chiến.
39. Là phần 4 trong một series 4 phần, có liên hệ đến điều răn thứ
tư trong 10 điều răn của Công giáo: “Thảo kính cha mẹ”.
40.
Krzysztof Kieslowski (1941 - 1996) là một nhà viết kịch bản,
làm phim nghệ thuật người Ba Lan có tầm ảnh hưởng sâu rộng,
được biết đến trên toàn thế giới và nhận nhiều giải thưởng của
Liên hoan phim Cannes, Venice, Berlin và nhiều danh hiệu khác.
41.
George Gershwin (1898 - 1937) là một nhà soạn nhạc người
Mỹ và cũng là một nhạc sĩ dương cầm. Những tác phẩm của
George Gershwin kéo dài ra cả thể loại nhạc phổ biến và Nhạc cổ
điển, và những giai điệu của ông được rất nhiều người biết đến.
Các tác phẩm của ông được áp dụng vào vô số bộ phim và cả tivi
truyền hình, và số nhiều trong đó đã trở thành các tiêu chuẩn
nhạc jazz được thu âm với các phong cách thể hiện khác nhau.
Rất nhiều ca sĩ và nhạc sĩ đã dùng các bài hát của Gershwin.
Chuyển sang âm nhạc, tôi nghĩ đến một quảng cáo của United
Airlines được phát trên TV một thời gian giữa thập niên 1990 –
giới thiệu các điểm đến mới của họ ở Mỹ Latinh. Diễn viên trong
đoạn quảng cáo này là một con vẹt mổ lên phím đàn piano trong
vài giây bản “Rhapsody in Blue” của George Gershwin41.
“Rhapsody” cho đến nay vẫn là nhạc quảng cáo của hãng United,
bản nhạc đệm đầy hùng tráng cho đoạn phim quay cảnh một
chiếc 777 sải cánh trên bầu trời.
Chúng ta không nên quên rằng nghệ sĩ quá cố Joe Strummer42
từng nhắc đến chiếc Douglas DC-10 trong bài hát “Spanish
Bombs” của ban nhạc The Clash, nhưng chính Boeing mới là gia
đình có thiên hướng âm nhạc hơn. Tôi có thể nghĩ ra ít nhất bốn
bài hát có nhắc đến chiếc 747 (bài yêu thích của tôi là “So It Goes”
của Nick Lowe43).
42.
John Graham Mellor (1952 - 2002), sinh tại Thổ Nhĩ Kỳ, là nhà
soạn nhạc, nhạc sĩ, ca sĩ và diễn viên người Anh, là đồng sáng lập,
người viết lời, chơi guitar đệm và giọng ca chính của ban nhạc
punk rock mang tên The Clash, thành lập vào năm 1976 và là
một phần trào lưu đầu tiên của punk rock tại Anh. Ông là một
trong những biểu tượng của trào lưu punk tại Anh. Strummer và
nhóm The Clash đã bước lên Đại lộ Danh Vọng Rock & Roll tháng
1/2003.
43.
Nicholas Drain “Nick” Lowe (1949) là ca sĩ viết nhạc, nhạc sĩ
và nhà sản xuất người Anh, là một hình tượng của dòng pub rock,
power pop và new wave với nhiều solo album được đánh giá cao.
Không hiểu sao thương hiệu Airbus lại không hợp để đưa vào lời
bài hát, tuy Kinito Mendes, một nhạc sĩ của dòng nhạc Merengue,
vào năm 1996 đã viết tặng chiếc Airbus A300 bài hát “El Avion”
như một điềm báo đáng buồn. “Hẳn sẽ vui mừng biết bao khi
được bay chuyến 587,” Mendez hát, biến chuyến bay thẳng buổi
sáng phổ biến của American Airlines từ New York đến Santo
Domingo trở nên bất tử. Vào tháng 11 năm 2001, chuyến bay gặp