Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Kể chuyện: Kể chuyện đã nghe, đã đọc

Lý thuyết
Mục lục
* * * * *

Bài mẫu 1:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Chuyện người mẹ hiền

Hướng dẫn giải

Chắc hẳn chúng ta đều đã từng được nghe câu chuyện “Người mẹ hiền”. Đó là câu chuyện mà chúng ta đã được học trong chương trình Tiếng việt lớp 2, tập một. Câu chuyện kể về hai cậu học sinh Minh và Nam trốn học đi chơi và lòng vị tha, nhân hậu của cô giáo. Câu chuyện như sau:

Giờ ra chơi, Minh thầm thì với Nam:

- Ngoài phố có gáng xiếc, tụi mình đi xem đi.

Nghe vậy, Nam không ngăn nổi sự tò mò

- Nhưng cổng trường khóa, trốn ra sao được?

Minh bảo:

- Tôi biết có một chỗ tường thủng.

Hết giờ ra chơi, hai em đã ở bên bức tường. Minh chui đầu ra, Nam đẩy Minh lọt ra ngoài. Đến lượt Nam cố lách ra thì bác bảo vệ vừa tới, chặt hai chân em.

Cậu nào đây, trốn học hả. Nam vùng vẫy bác càng nắm chặt cổ chân Nam hơn. Sợ quá Nam khóc toáng lên. 

Bỗng có tiếng cô giáo:

- Bác nhẹ tay, kẻo cháu đau, cháu này là học sinh lớp tôi.

Cô nhẹ nhàng kéo Nam lùi lại rồi đỡ em ngồi dậy, cô phủi đất cát lấm lem trên người Nam và đưa em về lớp.

Vừa đau, vừa xấu hổ, Nam bật khóc. Cô xoa đầu Nam và gọi Minh đang thập thò ở cửa lớp vào nghiệm giọng hỏi:

- Từ nay, các em có trốn học đi chơi nữa không?

Hai em cùng đáp:

- Thưa cô, không ạ! Chúng em xin lỗi cô.

Cô hài lòng bảo hai em về chỗ rồi tiếp tục giảng bài.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy được sự bao dung, yêu thương và đầy lòng vị tha của cô giáo. Không những cô không mắng nhiếc mà còn lo lắng quan tâm cho Nam và Minh. Cô xứng đáng như một người mẹ hiền giống như tựa đề của câu chuyện vậy.

Bài mẫu 2:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Chuyện chiếc rễ đa tròn

Hướng dẫn giải

Em đã được nghe nhiều bài hát, được đọc nhiều câu chuyện về Bác. Em có nhớ, trong bài thơ “thăm cõi Bác xưa” nhà thơ Tố Hữu có viết:

Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta

Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa

Chỉ biết quên mình cho hết thảy

Như dòng sông chảy nặng phù sa

Tình thương của Bác được thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn trong những mẩu chuyện nói về cuộc sống giản dị hằng ngày của Bác. Trong những mẩu chuyện ấy, câu chuyện”chiếc rễ đa tron” đã lại nhiều ấn tượng nhất với em. Sau đây, em xin kể lại để mọi người cùng nghe.

Buổi sáng hôm ấy, như thường lệ, sau khi tập thể dục, Bác Hồ đi dạo trong vườn. Đến gần cây đa, Bác chợt thấy một chiếc rễ đa nhỏ và dài ngoằn nghèo trên mặt đất, chắc là trận gió đêm qua đã làm nó rơi xuống. Bác tần ngần một lát rồi bảo chú cần vụ đứng gần đấy:

- Chú cuốn chiếc rễ này lại rồi trồng cho nó mọc tiếp nhé.

Theo lời Bác, chú cần vụ xới đất rồi vùi chiếc rễ xuống nhưng Bác lại bảo:

- Chú nên làm thế này.

Nói rồi, Bác cuộn chiếc rễ thành một vòng tròn và bảo chú cần vụ buộc nó tựa vào hai cái cọc. Sau đó, mới vùi hai đầu rễ xuống đất. Chú cần vụ thắc mắc:

- Thưa Bác, làm thế để làm gì ạ?

Bác khẽ cười:

- Rồi chú sẽ biết.

Nhiều năm sau, chiếc rễ đã bén đất và thành cây đa con có vòng lá tròn. Thiếu nhi đến thăm vườn Bác ai cũng thích chơi trò chui qua chui lại vòng lá ấy. Lúc đó, mọi người mới hiểu, vì sao Bác trồng chiếc rễ đa thành hình vòng tròn như thế.

Qua câu chuyện trên của Bác ta thấy, Bác lúc nào cũng nghĩ đến các cháu thiếu niên nhi đồng. Tình thương của Bác thạt là bao la rộng lớn. Chúng ta may mắn lớn lên và sinh ra được học tập ngày hôm nay là nhờ công lao to lớn của Bác và các anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng học tập chăm chỉ, trau dồi, rèn luyện bản thân, để xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ.

Bài mẫu 3:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Ở lại với chiến khu

Hướng dẫn giải

Trẻ em sinh ra và lớn lên không chỉ biết dựa dẫm, ỉ lại vào nương tựa vào gia đình và xã hội. Mà chúng ta cần phải học hỏi, phải trau dồi để trở thành những người con có trách nhiệm, có bổn phận ngược lại đối với gia đình , nhà trường và xã hội. Câu chuyện “ ở lại với chiến khu” sau đây, cũng đã nói lên được phần nào nói lên được điều đó. Câu chuyện như sau:

Trung đoàn trưởng bước vào lán, nhìn cả đội một lượt. Cặp mắt ông ánh lên vẻ trìu mến, dịu dàng ông ngồi yên lặng một lúc lâu rồi lên tiếng:

- Các em à, hoàn cảnh chiến khu lúc này rất gian khổ. Mai đây, chắc còn gian khổ thiếu thốn nhiều hơn, các em sẽ khó lòng chịu nổi. Nếu em nào muốn trở về sống với gia đình thì trung đoàn cho các em về. Các em thấy thế nào?

Trước ý kiến đột ngột của chỉ huy, bọn trẻ lặng đi. Tự nhiên, ai cũng thấy cổ họng mình nghẹn lại.

Lượm bước lại gần đống lửa, giọng em rung lên:

- Em.m.m xin được ở lại. Em.m.m thà chết trên chiến khu còn hơn về ở chu ở lội với tuị Tây, tui Việt gian.

Cả đội nhào nhào:

- Chúng em xin ở lại

Mừng nói như vang lên:

- Chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều thì trung đoàn cho chúng em ăn ít cũng được, đừng bắt chúng em phải về tội chúng em lắm.

Những lời van xin thơ ngây mà thắm thiết, van xin được ở lại chiến đấu hi sinh vì tổ quốc của các chiến sĩ nhỏ tuổi làm trung đoàn trưởng rơi nước mắt. Ông ôm Mừng vào lòng nói:

- Nếu các em đều xin ở lại, anh sẽ về báo cáo với ban chỉ huy.

Bỗng một em cất tiếng hát, cả đội đồng thanh hát vang:

“Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi

Toàn thắng vinh quang ghi ngày trở về

Ra đi ra đi bảo tồn sông núi

Ra đi ra đi thà chết chớ lui”

Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua lớp lớp cây rừng bùng lên như ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, làm cho lòng người chỉ huy ấm hẳn lên.

Câu chuyện trên kể về tinh thần yêu nước, không quản ngại khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ nhỏ tuôi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây. Các bạn nhỏ xứng đáng là những tấm gương sáng để chúng ta noi theo.

Bài mẫu 4:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Trận bóng dưới lòng đường

Hướng dẫn giải

Trong lứa tuổi của chúng ta, có rất nhiều bạn thích chơi bóng. Tuy nhiên, cần phải chơi đúng nơi đúng chỗ. Vậy mà có một nhóm bạn của chúng ta lại không để ý đến điều ấy, các bạn đã chơi bóng dưới lòng đường. Chuyện gì đã xảy ra hôm đó? Chúng ta cùng tìm hiểu bài tập đọc Trận bóng dưới lòng đường.

Trận đấu vừa bắt đầu thì Quang cướp được bóng, Quang bấm nhẹ bóng sang cánh ohair cho Vũ. Vũ dẫn bóng lên. Bốn, năm cầu thủ đội bạn lao đến. Vũ ngần ngừ giây lát. Chợt nhận ra cánh trá trống hẳn đi, Vũ chuyền bóng cho Long. Long như chỉ đợi có vậy, dốc bóng nhanh về phía khung thành đối phương. Cái đầu húi của của cậu bé chui về phía trước. Bỗng một tiếng “kít….” làm cậu sững lại. Chỉ chút nữa thì cậu đã tông phải xe gắn máy. Bác đi xe nổi nóng làm cả bọn chạy toán loạn.

Nhưng chỉ được một lát, bọn trẻ hết sợ, lại hò nhau xuống lòng đường. Lần này, Quang quyết định chơi bóng bổng. Còn cách khung thành chừng năm mét, em co chân sút rất mạnh. Qủa bóng vút lên, nhưng lại đi lệch lên vỉa hè và đập vào đầu một cụ già. Cụ lảo đảo, ôm lấy đầu và khụy xuống. Một bác đứng tuổi vội đỡ lấy cụ, Bác quát to:

- Chỗ này là chỗ chơi bóng à?

Đám học trò hoảng sợ bỏ chạy.

Từ một gốc cây, Quang lén nhìn sang. Bác đứng tuổi xuýt xoa, hỏi an ông cụ. Một chiếc xích lô xịch tới. Bác lớn tuối vừa dìu ông cụ lên xe vừa bực bội:

- Thật là quá quắt.

Quang sợ tái cả người. Bỗng cậu thấy cái lưng còng của ông cụ sao giống lưng ông nội thế. Cậu bé vừa chạy theo chiếc xích lô, vừa mếu máo:

- Ông ơi…Cụ ơi! Cháu xin lỗi cụ.

Qua câu chuyện trên ta rút ra được được bài học: Không được chơi bóng dưới lòng đường vì dễ gây tai nạn. Phải tôn trọng Luật giao thông để bảo vệ tính mạng cho mình và cho mọi người. Hơn nữa, cũng qua câu chuyện này ta biết được Quang là cậu bé biết nhận lỗi khi đá bóng ở lòng đường làm cụ già bị thương, đồng thời bạn ấy cũng là người giàu tình cảm, khi nhìn cái lưng của ông cụ, em nghĩ đến cái lưng của ông nội mình và mếu máo xin lỗi ông cụ.

Bài mẫu 5:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Những tấm lòng cao cả - chương 1

Hướng dẫn giải

Những tấm lòng cao cả là một cuốn tiểu thuyết trẻ em của nhà văn người Ý Edmondo De Amicis. Lấy bối cảnh trong lúc nước Ý đang thống nhất cũng như nói về đề tài yêu nước. Tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên vào ngày 18 tháng 10, năm 1886. Chuyện được phân ra nhiều chương khác nhau. Sau đây mời các bạn cùng nghe những trang đầu của chương 1 – ngày khai trường.

Hôm nay là ngày khai trường, mấy tháng nghỉ hè của chúng tôi đi qua như một giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi dắt tôi đến sân hiệu Ba-ret-ty để ghi tên tôi vào lớp 3. Còn tôi thì mải nhớ thôn quê, tôi đến trường chỉ là miễn cưỡng. Tất cả các đường phố đều tấp nập học sinh đông như kiến. Hai cửa hiệu bán sách chật những bố mẹ học sinh vào mua nào vở, nào giấy thấm, nào cặp sách bằng da. Trước trường, người đông đến nỗi ông gác cổng và người cảnh binh đều phải chật vật lắm mới giữ được thông lối vào ra. Chúng tôi sắp bước qua cổng thì có người đặt tay lên vai mình. Đó là thầy giáo lớp hai của tôi có mái tóc hôm, bù xù và tính vui vẻ không bao giờ cạn. Thầy bảo tôi:

- Chúng ta thế là xa nhau mãi rồi phải không En-ri-cô?

Tôi trông thấy thầy hiệu trưởng mà bộ râu có bạc hơn năm ngoái một ít, đang bị vây giữa những bè mẹ khá phật ý vì không còn chỗ cho con họ vào học nữa. Tôi thấy nhiều bạn tôi lớn lên nhiều. Ở tầng dưới, học sinh chia xong vào các lớp. Người ta thấy các em học những lớp vỡ lòng không chịu vào lớp, cứ đẩy nhau, như những con lừa con. Người ta, phải lôi chúng vào, vài em phải bỏ chạy không chịu ngồi vào ghế, nhiều em khác òa lên khóc khi thấy bố mẹ chúng ra về. Những ông bố hoặc bà mẹ ấy phải quay lại khuyến khích hoặc dỗ dành con. Còn các cô giáo thấy vậy cũng có chiều thất vọng.

Em trai tôi vào lớp của cô Đencatri, còn tôi thì học thầy Perbôni ở trên tầng 2.

Đến 10 giờ thì tất cả chúng tôi đều đã vào lớp hết, có 54 học sinh tất cả, trong đám ấy tôi chỉ gặp lại chưa đến 15, 16 bạn cũ lớp 2, trong đó có Đêrôtxi, cái cậu bao giờ cũng được giải nhất. Thây giáo năm nay của chúng tôi người cao lớn, không có râu, tóc dài đã hoa râm hết, có một nếp nhăn trên trán, tiếng nói rất to. Thầy nhìn chúng tôi chằm chằm hết đứa này đến đứa khác như muốn đọc rõ tận trong lòng chúng tôi. Thầy không bao giờ cười, tôi thầm nghĩ: Hôm nay mới là ngày đầu, còn mười tháng nữa mới đến nghỉ hè. Trong mười tháng ấy sẽ có biết bao nhiêu là việc làm, bao nhiêu là bài làm và bao nhiêu là sự khó nhọc đang chờ ta !" , nên lúc ra về tôi có vẻ chán nản. Mẹ tôi khuyên rằng:

- Enricô ơi ! Hãy can đảm lên, con ạ !

- Mẹ sẽ cùng học bài với con ...

Tôi yên tâm theo mẹ tôi về nhà, nhưng lòng vẫn nhớ tiếc một ông thầy vui tính và hiền từ, vẫn thấy trường học kém vui, không bằng năm ngoái.

Qua chương một của câu chuyện, chúng ta thấy được tấm lòng cao cả của người mẹ Enricô. Bằng tình thương và sự động viên của mình, bà ấy đã giúp Enricô từ chỗ chán nản việc học sang hứng thú với việc học hơn.

Bài mẫu 6:

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Không gia đình - Phần 1: Làng tôi

Hướng dẫn giải

Không gia đình là câu chuyện kể về một em bé không cha mẹ, không họ hàng thân thích, đi theo một đoàn xiếc chó, khỉ  rồi cầm đầu đoàn ấy đi lưu lạc khắp đất nước Pháp sau đó bị tù ở Anh. Cuối cùng tìm thấy mẹ và em. Em bé Rê mi ấy đã lớn lên trong gian khổ, em đã chùng đụng mọi hạng người nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương…Và để hiểu hơn về câu chuyện, chúng ta cùng đến với chương một làng tôi của cuốn không gia đình.

Tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi.

Mãi đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến dịu dàng ôm tôi vào lòng, dỗ dành cho tôi nín.

Mỗi khi tôi đi ngủ lại có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát ru của bà.

Khi tôi chăn con bò sữa trên những ven đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về.

Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe, rồi bà tìm lời ngọt ngào dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải.

Vì những điều đó và nhiều điều khác nữa, vì giọng nói âu yếm, vì đôi mắt trìu mến của bà, vì những sự vỗ về thương yêu tôi, vì vẻ nhân từ của bà dẫu khi trách mắng tôi, tôi luôn nghĩ bà là mẹ tôi.

Tôi biết bà chỉ là mẹ nuôi tôi thôi, như thế này đây.

Làng tôi, hay gọi cho đúng, nơi tôi được nuôi nấng, vì tôi không có làng riêng cho tôi, không có nơi sinh, mà không có cả cha lẫn mẹ nữa, làng mà tôi đã sống trong thời thơ ấu gọi là Savanong, một làng trong những làng nghèo nhất ở miền Trung nước Pháp.

... nghèo nàn đó không phải là tại .... đần độn hay lười biếng mà chính vì vị trí của làng ở vào một nơi đất khô cằn. Đất lớp mặt mỏng, muốn được hoa màu tốt phải có phân bón nhưng ở miền này đều thiếu thốn. Vì thế người ta chỉ thấy một số ít ruộng được cày cấy, còn toàn là những bãi hoang bao la để cho bụi rậm và cỏ mọc đầy. Trên những bãi cao đó, lác đác cũng có một vài khóm cây to, nhưng khi những ngọn gió may thổi đến, thì chỉ còn trơ những cành khẳng khiu.

Muốn thấy những cây đẹp, phải xuống thung lũng, đến chỗ các bờ sông nhỏ; trong những đồng cỏ hẹp mới có những cây dẻ cao và những cây sồi to lớn xum xuê. Chính ở một trong những thung lũng đó, trên bờ một dòng suối chảy xiết đổ vào phụ lưu của sông Loa, có ngôi nhà thân yêu của tôi thời thơ ấu.

Cho đến năm lên tám, tôi chưa hề trông thấy một người đàn ông nào trong nhà. Tuy nhiên, mẹ tôi không phải góa bụa, vì chồng bà đi làm thợ đẽo đá ở Pari cũng như phần đông những người thợ khác ở vùng này. Từ ngày tôi đến tuổi hiểu biết, tôi không thấy ông ta về lần nào. Thỉnh thoảng bạn cùng làm về quê thì ông nhắn tin thôi.

- Bà Bacbơranh ơi! Ông nhà vẫn khỏe mạnh, có nhờ tôi về nói cho bà biết là việc làm ăn cũng khá và có gửi ít tiền về đây. Bà đếm lại xem!

Chỉ có thế thôi. Bà Bacbơranh cũng đành biết có thế là đủ: chồng bà mạnh giỏi, công việc đều, làm ăn khá. Ông Bacbơranh ở mãi Pari không về, không phải là trong gia đình có chuyện xích mích gì đâu. Việc bất hòa không phải là nguyên nhân cuộc xa vắng đó. Ông phải ở luôn Pari vì công việc bắt buộc, chỉ có thế thôi. Khi già ông sẽ trở về. Với số tiền góp nhặt, dành dụm, vợ chồng ông sẽ khỏi bị đói rét khi tuổi già sức yếu.

Một buổi chiều về tháng Mười Một, trời sắp tối, có một người đàn ông lạ mặt, đến đứng ngoài bờ giậu. Tôi ở trên hè đang bẻ củi chà là. Người ấy đứng ngoài nghển đầu vào hỏi tôi có phải đây là nhà bà Bacbơranh.

Tôi mời ông ta vào. Ông khách đẩy cửa làm cho sợi dây buộc kêu cót két rồi bước vào.

Ông ta lấm như vùi. Những vẩy bùn chỗ khô, chỗ ướt bám từ đầu xuống chân. Trông thấy thế, ai cũng hiểu rằng ông ta đã vất vả trên những con đường lầy lội. Nghe có tiếng người, mẹ tôi chạy ra thì vừa gặp ông ta đang vào. Ông ta nói:

- Tôi đem tin từ Pari về đây!

Đó là một câu rất quen tai, nhưng câu đó nghe khác hẳn giọng nói các câu mấy lần trước thường kèm thêm những tin: "Ông ấy khỏe mạnh, làm ăn khá".

Mẹ tôi chắp tay lại và kêu to:

- Trời ơi! Chắc có tin chẳng lành cho ông Giê-rôm nhà tôi rồi!

- Phải đấy! Bà đừng lo sợ quá. Ông nhà bị thương, may không chết. Nhưng có lẽ rồi thành tật. Hiện giờ ông nằm nhà thương. Tôi nằm giường bên cạnh. Nhân tôi về quê, ông bảo đi qua nhắn giúp. Thôi, chào bà, tôi không thể ở lâu đươc, vì còn phải đi ba dặm nữa, mà trời đã sắp tối rồi.

Mẹ tôi muốn biết tường tận hơn nên đã mời ông khách ở lại ăn cơm. Đường thì xấu, mà người ta lại bảo trong rừng có nhiều chó sói, nên ông ta cũng vui lòng ở lại. Ông ta ngồi trong góc cạnh lò sưởi, vừa ăn vừa kể lại cho chúng tôi nghe.

Ông Bacbơranh bị giàn giáo xây nhà đổ sập xuống đè phải. Xét ra lúc bấy giờ không phải việc ông ở đấy, nên chủ thầu không chịu bồi thường. Ông khách nói thêm:

- Thực không may! Phải kẻ tinh khôn hơn, có lẽ họ tìm cách đòi được tiền trợ cấp suốt đời. Nhưng ông nhà thì chẳng được đồng nào.

Ông ta vừa sấy đôi ống quần cứng cộp vì bùn khô lại, vùa nhắc lại câu "Thực không may!" với một vẻ buồn thành thực như tỏ ra rằng nếu vào địa vị ông, ông sẽ vui lòng xin cưa phăng đi một chân hòng đòi khoản trợ cấp suốt đời. Để kết thúc câu chuyện, ông nói:

- Tuy nhiên, tôi đã khuyên ông nhà đệ đơn kiện chủ thầu.

Mẹ tôi nói:

- Kiện thì tốn kém lắm!

- Phải, nhưng lúc được kiện thì cũng bõ!

Mẹ tôi muốn đi Pari xem sao, nhưng đi là cả một sự phiền phức vì đường sá xa xôi và tốn nhiều tiền.

Sáng hôm sau, chúng tôi đến hỏi ý kiến linh mục làng. Cha bảo để xét xem mẹ tôi ra đó có lợi ích gì, thì hãy nên đi. Rồi cha viết thư cho cha tuyên úy ở nhà thương ông Bacbơranh nằm điều trị. Mấy hôm sau, cha nhận được thư trả lời, bảo mẹ tôi không phải đi, chỉ cần gửi ít tiền ra cho ông để kiện chủ thầu.

Ngày, tháng qua, thỉnh thoảng lại có thư về hỏi tiền. Lá thư cuối cùng khẩn bách hơn, bảo nếu hết tiền thì đem bán con bò sữa đi mà gửi.

Những ai đã sống ở nhà quê, mới biết có bao nhiêu khổ não, đau đớn trong hai tiếng "bán bò sữa".

Đối với nhà động vật học, bò là giống nhai lại; dưới con mắt của du khách, đó là con vật tô điểm cho phong cảnh nên thơ mỗi khi nó nghếch cái mồm đẫm sương trên thảm cỏ; với trẻ con ở tỉnh, bò là nguồn cà phê sữa, bánh phó-mát kem. Nhưng đối với dân quê, còn có những điều hơn thế. Nhà dù nghèo đến thế nào, khó đến thế nào, nếu trong chuồng có được một con bò cái, thì nhất định không phải nhịn đói.

Chỉ với một cái dây thừng để dài hay quấn gọn trên sừng là đủ để một đứa trẻ có thể chăn bò trên những con đường đầy cỏ xanh non, nơi không thuộc về ai. Rồi chiều đến, cả gia đình có đủ bơ để nấu súp, đủ sữa để dầm khoai. Cha, mẹ, con cái, người lớn cũng như trẻ con, mọi người đều sống nhờ con bò.

Mẹ tôi và tôi, sống rất no đủ nhờ con bò của chúng tôi, ngoài sữa ra không hề cần đến thịt thà. Con bò cái đó không những là vú nuôi của chúng tôi, nó còn là một người bạn chân tình nữa. Ta chớ tưởng con bò là một con vật không biết gì, trái lại, nó là giống rất thông minh và có nhiều đức tính ngày thêm nảy nở do sự huấn luyện mà ra. Chúng tôi vuốt ve nó, nói chuyện với nó, nó hiểu chúng tôi. Bằng đôi mắt to tròn, dịu hiền, nó có thể tỏ cho chúng tôi biết ý muốn hoặc sự cảm biết của nó. Nói tóm lại, chúng tôi yêu nó và nó cũng mến chúng tôi.

Thế mà chúng tôi phải lìa bỏ nó, lìa nhau vì phải bán nó mới làm cho ông Bacbơranh vừa lòng.

Hôm sau, một người lái đến. Sau khi ngắm nghía con Russet, rồi vừa sờ nắn, vừa lắc đầu nói đi nói lại đến trăm lần là con bò này chẳng vừa ý ông ta chút nào, bò nhà nghèo, khó bán lại, đã ít sữa mà sữa lại xấu. Sau cùng, ông ta cũng cố gắng mua, cốt để tỏ lòng tốt muốn giúp đỡ bà Bacbơranh là một người đàn bà đảm đang.

Tội nghiệp cho con Russet. Hình như nó cũng biết câu chuyện vừa diễn ra, nên không chịu ra khỏi chuồng và kêu rống lên.

Người lái tháo cái roi vẫn quàng ở cổ, đưa cho tôi và bảo:

- Em vào phía sau đánh cho nó ra.

Mẹ tôi bảo:

- Đừng làm thế! Rồi cầm lấy dây, mẹ tôi nói nhẹ nhàng:

- Russet ra đây! Ngoan!

Con Russet không dám kháng cự nữa. Ra đến đường cái, người lái buộc dây bò vào sau xe, thế là nó phải chạy theo ngựa.

Chúng tôi trở về nhà, vẫn còn nghe thấy tiếng bò kêu, lâu lâu mới hết.

Thế là chẳng còn sữa, chẳng còn bơ. Từ nay, sáng ăn bánh suông, chiều ăn khoai chấm muối.

Bán bò được mấy hôm thì đến ngày lễ "Tuần chay". Năm ngoái, cũng ngày này, mẹ tôi đã làm một bữa bánh rán, bánh sữa rất ngon. Tôi ăn lấy ăn để, mẹ tôi tỏ vẻ sung sướng vô cùng.

Bấy giờ chúng tôi còn Russet, nó cho sữa pha bột, cho bơ để bỏ chảo. Bây giờ không còn Russet nữa, hết bơ, hết sữa, hết ngày "Tuần chay". Tôi nghĩ mà buồn.

Nhưng mẹ tôi đã đem lại cho tôi một sự ngạc nhiên. Không phải vay mượn ai, bà đã xin hàng xóm người này một chén sữa, người kia một miếng bơ. Khoảng trưa tôi về nhà, thấy bà đang lúi húi đổ bột vào chảo sành lớn. Tôi lại gần mẹ tôi và nói:

- A! Nhà có bột!

Mẹ tôi vừa cười vừa đáp:

- Có chứ! Bột đấy! Chính bột mì đấy! Reemi, con xem bột có mịn không?

Lòng tôi muốn hỏi bột đó dùng để làm gì, nhưng không dám nói ra. Tôi cũng muốn nhắc hôm nay là ngày lễ "Tuần chay", nhưng sợ làm mẹ tôi phiền lòng. Chợt mẹ tôi hỏi:

- Đố con biết bột dùng để làm gì?

- Làm bánh mì.

- Làm gì nữa?

- Nấu cháo sữa.

- Gì nữa?

- Trời! Con không biết!

- Có, con biết đấy. Nhưng con là đứa trẻ ngoan, nên con không nói đấy thôi. Con biết hôm nay thứ ba, ngày "Tuần chay" được ăn bánh rán, bánh sữa. Nhưng con thấy nhà hết bơ, hết sữa nên con không dám nhắc đến. Phải không?

- Ôi! Mẹ...

- Mẹ biết trước thế. Nên mẹ đã sắp đặt để đến ngày lễ con khỏi phải buồn tủi. Con nhìn trong thùng gỗ xem.

Tôi vội tới mở mạnh nắp ra, thì quả thấy nào sữa, nào bơ, nào trứng, nào khoai. Mẹ tôi bảo:

- Lấy trứng ra đây cho mẹ làm! Con đi gọt khoai đi!

Trong khi tôi thái khoai, mẹ tôi đập trứng cho vào bột, đánh đều, rồi thỉnh thoảng lại trộn vào một thìa sữa. Khi bột đã hòa xong, mẹ tôi đặt chậu lên đống tro nóng để đến chiều làm, vì bữa tối chúng tôi mới dùng đến. Tôi xin thú thật rằng ngày hôm đó tôi thấy dài quá và nhiều lần tôi vào bếp mở trộm tấm khăn phủ chậu bột ra nhìn. Mẹ tôi gắt:

- Đừng mở! Bột mì bị lạnh vào không nở đâu!

Nhưng tôi thấy bột vẫn nở tốt. Nhiều chỗ phồng lên và trên mặt có thứ nước như nước dùng. Bột lên men sao mà thơm thế, nức mùi trứng và sữa. Mẹ tôi bảo:

- Con bẻ cho mẹ một ít củi vụn, để lửa cháy cho đượm và không có khói.

Không cần phải bảo đến hai lần, tôi vào bếp luôn vì đã nóng ruột lắm rồi.Trong giây lát, một ngọn lửa to đã bốc lên trong lò. Ánh sáng chiếu khắp căn bếp. Mẹ tôi liền lấy chảo ở trên tường xuống, đặt lên lò:

- Lấy bơ cho mẹ.

Tôi đem bơ ra, mẹ tôi lấy mũi dao xén một miếng bằng quả hồ đào và bỏ vào chảo, bơ chảy ra và kêu xèo xèo. A! Bơ thơm ngon quá vì đã lâu tôi không ngửi thấy mùi. Đồng thời, tôi lại được nghe một khúc nhạc vui tai do lửa reo và tiếng mỡ nổ tí tách trên lò.

Trong khi tôi chăm chú nghe những âm thanh đó, thì hình như có tiếng bước chân ngoài sân. Ai lại có thể đến ám bên ta trong giờ này? Có lẽ bà hàng xóm sang xin lửa chăng?

Nhưng tôi cũng chẳng để ý đến việc đó, vì mẹ tôi đang múc ở chậu ra một thìa bột trắng tinh đổ vào chảo. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến chuyện khác.

Tiếng gậy chạm vào ngưỡng cửa, rồi bỗng nhiên cánh cửa mở toang ra. Không ngoảnh cổ lại, bà Bacbơranh hỏi:

- Ai đấy?

Một người đàn ông bước vào. Nhờ ánh đèn đỏ, tôi trông rõ người đó mặc một cái áo blu trắng, tay chống chiếc gậy to. Người đó nói giọng chương chướng:

- Đây cũng ăn lễ "Tuần chay" à? Cứ làm đi.

Mẹ tôi bắc chảo ra, vội kêu to:

- A! Ông đã về đấy à?

Xong mẹ tôi cầm cánh tay tôi, đẩy tôi lại chỗ ông ta, ông đứng dừng lại. Mẹ tôi bảo tôi:

- Cha con đấy!

Có thể bạn quan tâm