Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 8 tháng 6 2020 lúc 11:18:58 | Được cập nhật: 20 giờ trước (10:04:14) Kiểu file: DOC | Lượt xem: 411 | Lượt Download: 1 | File size: 0.244736 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Ngữ văn 11 Dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới. - Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên. - Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử g ửi cho Hoàng Th ị Kim Cúc khi Hoàng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ông chóng lành bệnh kèm một bức tranh phong cảnh. - Bài thơ là sự đan xen hòa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ nhàng. II. Thân bài: Khổ 1: Cảnh thiên nhiên xứ Huế Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vỹ Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lòng nhớ thương, băn khoăn - Đó là lời mời thân thiện, gắn bó - Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha - Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thôn Vỹ. Câu 2,3: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt qua xanh như ngọc - Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh - Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ - Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền - Hai hình dạng đối lập: vuông vức mặt chữ điền với dáng v ẻ manh mai, thanh tao của lá trúc - Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh x ắn, tài sắc, phúc hậu của người con gái thôn quê. Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng - Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu s ắc đan xen: c ảnh đ ẹp nh ưng l ại buồn, mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây. - Cuộc chia lìa ấy ghi vào lòng sông những cung bậc thê l ương: dòng n ước buồn thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trôi. - Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người bu ồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thật đẹp còn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh. Câu 3.4: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng o đây l ại là “bến sông trăng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chi ếu xu ống m ặt nước, lan tỏa trên mặt nước vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vô đ ịnh (thuy ền ai), mênh mông dạt dòa. Nỗi niềm tâm tư của tác giả nh ư lan t ỏa, th ấm sâu, rộng lớn vô ngàn. Trong người lúc này là sự rưng rưng, xót xa, man mác đ ến nhói lòng. - Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”. Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân. - Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình c ủa tác giả: b ệnh tình của người khiến hạn chế về thị giác: nhìn không ra, mờ nhân ảnh. T ừ đó, khiến cho con người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi. - Thể hiện những mộng tưởng đơn giản: mở khách đường xa khách đường xa, tác giả mong mình có thể được đến thôn để Vỹ thưởng thức cảnh và gặp người thôn Vỹ, để đáp lại tình cảm trân quý từ người bạn của mình. - Áo em trắng quá nhìn không ra: + Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế. + Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng v ẻ d ịu dàng của em. Ở đây sương khói mở nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác gi ả sinh sống. Với tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa. Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đ ớn, khó khăn, cô đ ơn nhưng trái tim tác giả vẫn đong đầy yêu thương: đó là tình yêu quê h ương đất nước, xứ xở và tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em. Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê. III. Kết bài Nghệ thuật: - Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian th ời gian nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người. - Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,…=> Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay bổng và tuyệt đẹp. - Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải. - Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối b ởi dòng ch ảy cảm xúc và nội tâm chính tác giả. => Thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm. Nội dung: - Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả. - Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc. - Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu số 1 Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa t ừ nỗi đau c ủa tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài th ơ Đây thôn Vĩ D ạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc T ử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và c ụ th ể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nh ưng chan ch ứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý ti ếc nuối c ủa cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, m ột phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái g ợi m ở ở câu đ ầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng m ở tr ước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại g ợi m ột n ỗi ni ềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ t ới nh ững câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng. Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho m ột năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên m ột s ự ng ạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn c ủa thi nhân đã h ạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh c ủa vườn t ược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh m ượt mà, m ỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây đ ược s ương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được v ẻ đ ẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đ ều t ắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên s ơ ch ưa h ề nhu ốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu s ắc c ủa c ảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những v ần th ơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đ ặc bi ệt ở x ứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang t ả c ảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như giấc mộng: Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn h ơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy gi ọng t ươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ c ủa nh ững ng ười sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc T ử. Ý th ơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, th ật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Cỏ chở trăng về kịp tối nay? Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chi ếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huy ền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng n ước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, n ỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là v ầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không gi ống th ế này. M ột ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi: Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa Vờ tan thành vũng đọng vàng kho. Hay: Trăng nằm sóng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi. Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ c ủa Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là tr ời đ ất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng: Thuyền ai đậu bế sông trăng đó Có chở trăng về kịp tôi nay? Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một s ố phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không v ề k ịp và Hàn M ặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh bi ệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo trắng quá nhìn không ra; Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một kho ảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà th ơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định v ề tình c ảm c ủa người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà? Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu th ương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài th ơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; ti ếp đ ến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai bi ết tình ai có đ ậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn. Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng h ổi, lay động day dứt lòng người đọc. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Mẫu số 2 1. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ a) Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử phải là người bất hạnh nhất, lạ nhất và phức tạp nhất. Vì thế cũng bí ẩn nhất. Có ai định tranh chấp với Tử những cái "nhất" ấy không? Ví Tử với ngôi sao chổi, Chế Lan Viên đã thật có lí. Và cũng như thái độ dành cho một ngôi sao chổi quá l ạ, bao ống kính thiên văn đã đua nhau chĩa về Hàn Mặc Tử. Tiếc thay, cái v ừng sáng v ừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Đến nay đã có bao cu ộc thăm dò, thám hiểm. Với một hiện tượng "bấn loạn" nhường này, ướm đi ướm lại, người ta thấy tiện nhất là xếp vào loại siêu: nào siêu thực, siêu th ức, nào siêu thoát v.v... Vậy mà, nào đã thoát! Rốt cuộc, lơ lửng treo phía trước vẫn c ứ còn đó câu hỏi: Hàn Mặc Tử, anh là ai? Ngày trước, cuộc xung đột "bách gia bách ý" chỉ xảy ra với Hàn Mặc Tử, nói chung. "Đây thôn Vĩ Dạ" vẫn hưởng riêng một không khí thái bình. Phải đến khi được mạnh dạn tuyển vào chương trình phổ thông cải cách, sóng gió mới ập đến cái thôn Vĩ bé bỏng của Tử. Thế mới biết, chả hồng nhan nào thoát khỏi truân chuyên! Có người hạ bệ bằng cách chụp xuống một lí l ịch đen tối. Người khác đã đem tới một cái bóng đè. Không ít ng ười th ẳng tay khai trừ "Đây thôn Vĩ Dạ" khỏi danh sách những ki ệt tác thu ộc ph ần tinh chất của hồn thơ Tử... Ngay những ý kiến đồng lòng tôn vinh thi phẩm này cũng r ất phân hoá. Người si mê thấy đó chỉ là tỏ tình (với Hoàng Cúc). Người vội vàng bảo rằng tả cảnh (cảnh Huế và người Huế). Người khôn ngoan thì làm một gạch nối: tình yêu - tình quê. Kẻ bảo hướng ngoại. Người khăng khăng h ướng nội. Lắm người dựa hẳn vào mối tình Hoàng Cúc như một bảo b ối đ ể tham chiến. Người khác lại dẹp béng mảng tiểu sử với cái xuất xứ không ít quan trọng ấy sang bên để chỉ đột phá vào văn bản không thôi. Người khác n ữa lại hoàn toàn "dùng ngoài hiểu trong, dùng chung hiểu riêng", ví như dùng lí sự chung chung về cái tôi lãng mạn và tâm trạng lãng mạn để áp đặt vào một trường hợp rất riêng này... Tôi tin Hàn Mặc Tử không bác bỏ hẳn những cực đoan ấy. Nếu sống lại, thi nhân sẽ mỉm cười độ lượng với mọi ý kiến vì quá yêu Vĩ Dạ bằng những cách riêng tây mà nghiêng lệch thôi. Ở toàn th ể là thế. Mà ở chi tiết cũng không phải là ít chuyện. Ngay một câu "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" cũng gây tranh cãi. Cái màn "sương khói" làm "mờ nhân ảnh" là ở Vĩ Dạ hay thu ộc ch ốn người thi sĩ đang chịu bất hạnh, cũng gây bất đồng... Hèn chi, hai t ờ báo nhi ều liên quan đến nhà trường và văn chương là Giáo dục & Thời đại và Văn nghệ được phen chịu trận. Dù muốn hay không, nó cũng đã thành m ột "v ụ" th ực sự thời bấy giờ. Đến nay, khó mà nói các ý kiến đã chịu nhau. Tình hình xem ra khá mệt mỏi, khó đặt được dấu chấm hết. Hai báo đành thổi còi thu quân với vài lời tiểu kết nghiêng về "điểm danh". Một độ sau, nhà giáo-nhà nghiên cứu Văn Tâm khi soạn cuốn Giảng văn văn học lãng mạn (NXB Giáo Dục, 1991) đã điểm sâu hơn. Rồi nhà biên soạn này cũng nhanh chóng trở thành một ý ki ến thêm vào cái danh sách dài dài đó. Cuộc hành hương về Vĩ Dạ lại tiếp tục đua chen. Khói hương và cả khói lửa, vì thế, tràn lan ra nhiều báo khác, sang tận tờ Tập văn thành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam [1], động đến cả những người ở Hoa Kỳ, Canada... Chắc là hiếm có bài thơ nào trong trẻo thế mà cũng bí ẩn đến thế. Xem ra, cái chúng ta "gỡ gạc" được mới thuộc phần "dễ dãi" nhất ở đó thôi! b) Phải nói ngay rằng: coi một tác phẩm đã gắn làm một với cái tên Hàn Mặc Tử lại không tiêu biểu cho tinh chất của hồn thơ Tử, thì kì thật. Mỗi bài thơ hay, nhất là những tuyệt tác, bao giờ cũng có "mạng vi m ạch" n ối v ới tinh hoa tinh huyết của hồn thơ ấy. Có điều nó đã được dò tìm ra hay chưa thôi. Thậm chí, một hệ thống kiến giải mới về hiện tượng Hàn Mặc Tử sẽ khó được coi là thuyết phục, một khi chưa thử sức ở "Đây thôn Vĩ Dạ". Đã đ ến lúc phải lần ra "mạng vi mạch" của thi phẩm cùng tinh hoa tinh huy ết c ủa thi sĩ. Trong cảm thụ nghệ thuật, mọi việc khác không thể thay thế việc dùng trực cảm thâm nhập vào bản thân tác phẩm. Nhưng việc đ ộc tôn m ột chiều với nguyên tắc ấy ở đây đã tỏ ra không mấy hi vọng, nếu không nói là trở nên kém thiêng. Thôn Vĩ Dạ dường vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", cự tuyệt ngay cả những linh khiếu vốn cả tin vào một trực giác đơn thuần. Vĩ Dạ vẫn điềm nhiên giấu kín ngay trong sự trong trẻo kia bao bí ẩn c ủa nó. Muốn đến đúng chỗ giấu vàng của Thôn Vĩ, trực cảm nhất thiết phải đ ược trang bị thêm một "sơ đồ chỉ dẫn", một chìa khoá. Những thứ này, tiếc rằng, cũng giấu mình khắp trong thơ Hàn Mặc Tử. Nói cách khác, mỗi tác ph ẩm sống trong đời như một sinh mệnh riêng, tự lập. Có một thân ph ận riêng, một giá trị riêng, tự thân. Đọc văn, căn cứ tin cậy nhất, trước sau, vẫn là văn bản tác phẩm. Đó là một nguyên tắc. Và nhiều khi không bi ết gì v ề tác gi ả, vẫn có thể cảm nhận được tác phẩm. Nhưng hiểu và hiểu thấu đáo là hai cấp độ. Không am tường tác giả thì khó mà thấu đáo tác ph ẩm. Tr ường h ợp trong trẻo mà đầy bí ẩn như "Đây thôn Vĩ Dạ", với một vị thân sinh đ ầy phức tạp như Hàn Mặc Tử càng cần phải thế. Nghĩa là: thi ếu cái nhìn liên văn bản, cùng những khám phá về thân phận, tư tưởng và thi pháp c ủa tác giả sẽ khó giúp ta soi sáng được thi phẩm này. Trong nhiều điều cần cho sự soi sáng thôn Vĩ Dạ c ủa Hàn M ặc T ử, không thể không nói đến một tình yêu tuyệt vọng, lối Thơ Điên và lớp trầm tích những biểu tượng và ngôn ngữ thuộc hệ thống thi pháp của thi sĩ này. Nếu tình yêu tuyệt vọng quyết định đến điệu tình cảm chung, thì lối Thơ Điên quyết định trình tự cấu tứ, cơ cấu không gian. Trong khi lớp biểu tượng và ngôn ngữ ở tầng trầm tích lại quyết định đến hệ thống hình tượng, hình ảnh của thi phẩm đặc sắc này. 2. Vĩ Dạ trong Đau thương và Thơ điên a) Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan tr ọng nh ất c ủa thi sĩ chính là Đau thương. Thực ra ban đầu Hàn Mặc Tử đã đ ặt cho nó m ột tên khác, dễ sợ hơn: Thơ điên. Hai cái tên có th ể hoán cải cho nhau, là m ột điều đáng để cho ta lưu ý. Nó nói rằng Tử ý thức rất sâu s ắc v ề mình. Thì Đau thương và Điên chính là Hàn Mặc Tử vậy. Đau thương là cội nguồn sáng tạo, còn Điên là hình thức c ủa sáng tạo ấy. Đọc ra điều này không khó, nhưng nhận diện bản chất của Đau thương lại không dễ. Chả thế mà người ta cứ đánh đồng "đau đớn thân xác" v ới "đau khổ tinh thần", và cứ coi Điên chỉ giản đơn là một trạng thái bệnh lí. Ngẫm tới cùng Đau thương chính là một tình yêu tuyệt vọng. Ta th ường t ự cầm tù trong định kiến về tuyệt vọng. Thực ra, tuyệt vọng chả như ta v ẫn tưởng. Không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yêu thăng hoa. Tuyệt vọng có th ể chấm d ứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con người ta đi đến tuyệt vọng có thể vì những nguyên uỷ rất riêng tây kín khuất, đôi khi ta bất khả tri (một thiếu hụt, tổn thương, một mất mát nào đó trong tâm thể, chẳng hạn!). Hàn Mặc Tử có l ẽ thuộc số đó. Ai cũng biết chết là một cuộc chia lìa t ất y ếu và đáng s ợ. S ống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng ta đ ều có kh ả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám