Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 5 tháng 6 2020 lúc 10:16:22 | Được cập nhật: 14 tháng 5 lúc 5:37:41 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 409 | Lượt Download: 0 | File size: 0.202752 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề thi thử Tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ văn năm 2021
- Đề thi thử Tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn tỉnh Nghệ An năm 2020
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 17 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 16 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 40 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 38 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 35 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 39 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 36 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 37 năm 2021
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng
Dàn ý hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
- Thể loại
Kiểu bài phân tích nhân vật văn học. cụ thể là phân tích đặc đi ểm nhân
vật trong tác phẩm trữ tình.
- Nội dung:
Vẻ đẹp của người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp (qua
bài thơ Tây Tiến).
GỢI Ý
Cần tập trung vào mấy ý chính sau đây.
A. MỘT BIỂU TƯỢNG THƯƠNG NHỚ
Người lính hiện về hồi ức như một biểu tượng xa vời trong thời gian
và không gian (Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi... Tây
Tiến người đi không hẹn ước - Dường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy) nhưng vẫn là hoài niệm không d ứt, m ột
nỗi thương nhớ mênh mang (Nhớ về, nhơ chơi vơi...)
B. VẺ ĐẸP TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN
1. Người lính được miêu tả rất thực trong những sinh ho ạt c ụ th ể, v ới
những bước đi nặng nhọc trên đường hành quân cùng với những đói rét
bệnh tật, tiều tụy về hình hài, song rất phong phú trong đời sống tâm
hồn, với những khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ (Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc).
2. Họ nhạy cam trước vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng với những cảnh
sắc độc đáo rất tinh tế (hồn lau nẻo bến bờ, dáng ng ười trên đ ộc m ộc,
dòng nước lũ, hoa đong đưa).
- Tâm hồn người lính cháy bỏng những khát vọng chiến thắng, đồng
thời cũng ôm ấp những giấc mơ đẹp về tình yêu tuổi trẻ (Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Hoặc vẻ
đẹp của người con gái núi rừng có nét hoang sơ, kiều diễm đến sững
sờ (Kìa em xiêm áo tự bao giờ).
C. SỰ HI SINH ĐẦY BI TRÁNG
Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạn, đa tình, đa c ảm,
đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái c ổ đi ển,
trang trọng (Áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc đ ộc
hành), tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng
của người lính vang động cả thiên nhiên.
Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm
không dứt, hòa với bước dường của người chiến sĩ tình nguyện lên
đường vì đất nước:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 1
Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chi ến ch ống
Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng
bằng tài năng và trái tim thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên
những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc
kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối
hợp với bộ độ Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh địch trên tuyến
đường rừng núi Tây Bắc từ các tỉnh từ Lai Châu đến Thanh Hóa. Cu ộc
sống chiến đấu của những người lính Tây Tiến vô cùng khổ cực, thiếu
thốn. Phần lớn vì vùng núi hiểm trở, chốn rừng thiêng nước độc, sốt
rét hoành hành, thiếu thuốc men. Những người lính Tây Ti ến hi sinh
nhiều vì bệnh tật còn nhiều hơn sự hi sinh trên chiến trường.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là những thanh niên trí th ức Hà
Thành, phần đông là các sinh viên, học sinh còn đang ngồi trên gh ế nhà
trường. Mặc dù phải chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy
xong họ vẫn hiện lên với hình tượng lãng mạn song rất đỗi hào hùng,
bi tráng.
Bài thơ có nhan đề Tây Tiến, nhằm nhấn mạnh tên gọi của binh đoàn
và để thể hiện nối nhớ của nhà thơ về 1 thời kháng chiến khó khăn d ữ
dội nhưng rất đỗi hào hùng, say mê.
Hình tượng người lính Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng kh ắc
họa bằng những hình ảnh chi tiết vừa tả thực lại vừa lãng m ạn, m ạch
cảm xúc bài thơ là nhớ thương nên mở đầu bài thơ nhà thơ Quang
Dũng đã viết.
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Hình ảnh sông Mã anh hùng là hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhớ đến.
Chắc có lẽ sông Mã là 1 người bạn đồng hành lâu dài cùng các chi ến sĩ
trên các chặng đường hành quân chiến đấu. Câu thơ giống như m ột
tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lí xa xôi, vời vợi mà nỗi
nhớ luôn thường trực ám ảnh. Câu thơ thứ 2 đã sử dụng tới hai chữ
nhớ, ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn th ức, mong m ỏi, khát
khao của tác giả. Cụm từ “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ như lan t ỏa trong c ả
không gian và thời gian thấm vào nỗi lòng, tạo cảm giác như trống
vắng, ám ảnh khôn xiết về 1 thời hào hùng đã qua. Câu thơ reo vần
“ơi” tạo nên sự dịu dàng, nhớ thương sâu sắc.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi”.
Ta có thể thấy “Sài khao, Mường Lát” là những địa danh của các tỉnh
miền núi phía Bắc nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã từng hành quân qua.
Chất lãng mạn và chất hiện thực ở câu thơ này được hòa quyện vào
nhau. Viết về đoàn quân mỏi sau cuộc hành quân dài, nhưng khí chất
vẫn rất lãng mạn khi “sương lấp”, “ hoa về”, “ đêm hơi”.
Bức tranh thiên nhiên vùng núi Tây Bắc được nhà thơ Quang Dũng
khắc họa bằng hình ảnh rất lãng mạn, thông qua cái nhìn của những
người lính Tây Tiến, giữa trùng trùng, điệp điệp của núi non, dựng
vách hiểm trở, thế mà qua cái nhìn của người lính, khung cảnh ấy lại
rất đỗi hay ho và vui nhộn như thế này.
“Dốc lên khúc khuỷa, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Hai câu thơ mang hình tượng khái quát cao diễn tả sinh động về nh ững
gian khổ của người lính , các từ láy “ khúc khuỷa, thăm thẳm” gợi lên
không gian được mở ra nhiều chiều, một không gian thiên nhiên hùng
vĩ nhưng nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng. Từ “ heo hút” đ ược dùng
rất đặc sắc vừa gợi ra độ sâu khi nhìn xuống, mà khi nhìn lên lại cảm
thấy hoang vắng, lạnh lẽo. Địa hình chiến đấu của những người lính
Tây Tiến mặc dù quả thực đầy gian khó và hiểm nguy. Hình ảnh “Súng
ngửi trời” được sử dụng rất hóm hỉnh, vui tươi, đọc câu th ơ ta liên
tưởng đến câu thơ “ Đầu súng trăng treo” của nhà thơ Chính H ữu trong
bài thơ “ Đồng chí”. Cùng là hình ảnh lãng mạn nhưng với Chính H ữu
là hình ảnh hiện thực, từ con mắt tinh tế nhà thơ và ước mu ốn hòa
bình. Còn với Quang Dũng cụm từ “ Súng ngửi trời” là khí phách hiên
ngang, giữa thiên nhiên hoang sơ lạnh lẽo, hình ảnh con người làm chủ,
khẳng định cốt cách của người lính
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Chắc có lẽ đây là những câu thơ miêu tả chân thực nh ất v ề nh ững khó
khăn gian khổ của những người lính Tây Tiến nói riêng và nh ững
người lính trong thời kháng chiến chống Pháp nói chung lúc bấy gi ờ.
Hình ảnh “ cọp trêu người” và “ oai linh thác gầm thét” là những dẫn
chứng thật nhất, sự ám ảnh, dữ tợn của muông thú của thiên nhiên.
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Từ láy “dãi dầu” miêu tả sự nhọc nhằn, vất vả của người lính. Cuộc
hành quân trở như trùng lại, chậm lại 1 chút. Qua chữ “ bỏ quên đời” ta
thấy được hình tượng, khí phách dược ngời sáng từ chính sự thật đau
lòng nhất, các anh đã hi sinh trong quá trình hành quân. Dù là s ự m ệt
mỏi, hi sinh như thế nào, họ vẫn coi đó là sự nhẹ nhàng, thanh thản.
Sau cuộc chiến đấu, hành quân gian khổ, hiểm nguy đối dầu anh dũng
với lũ giặc, những người lính Tây Tiến lại trở về nghỉ nghơi với những
buổi liên hoan văn nghệ đặc sắc.
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”.
Sau những cuộc chiến đấu vất vả với súng đạn, bom lửa. Những đau
thương, mất mát vì bệnh tật, cái chết ập đến bất cứ lúc nào khi b ỏ l ại
tất cả, hình tượng người lính Tây Tiến lúc này thật gần gũi. Buổi liên
hoan bùng cháy lên sự vui tươi, phấn khởi. Hội trại bùng lên với khúc
hát tươi vui, sự giao lưu giữa những người lính và những người dân địa
phương. Từ “ bừng” được dùng rất hay, thể hiện sự náo nức. Đêm h ội
ấy, ta làm sao mà quên được hình ảnh người con gái trong buổi liên
hoan trong bộ xiêm y vô cùng xinh đẹp, trang tr ọng. Cảm xúc ng ười
chiến sỹ như ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lung linh của đêm hội, rồi lại
thả hồn vào điệu múa, tiếng nhạc khèn của đêm hội.
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hương vị xôi nếp đầu mùa, tha thiết là một kỉ niệm khó quên trong
lòng người lính Tây Tiến. Câu thơ được gieo thanh bằng, t ạo ra m ột
cảm xúc bâng khuâng, nhung nhớ đến khó tả
Tiếp theo mạch cảm xúc nhớ thương, nhà thơ Quang Dũng đã viết
“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Miêu tả rừng núi Tây Bắc nhà thơ đã gợi tả ra độ cao trắc trở thông qua
từ “ ngàn thước”, cảm giác chông chênh, một tấc như chạm tay đến
trời. Câu thơ thứ hai giống như miêu tả sự tưởng tượng của nh ững
người chiến sĩ sau 1 buổi hành quân mệt mỏi, đứng trên cao họ nhìn xa
xa, thấy sương mù ẩn hiện là thấp thoáng ngôi nhà của những người
dân. Người chiến sĩ như hóa thân thành người nghệ sĩ thả hồn vào điệu
nhạc thiên thiên và của chính tâm hồn mình. Cảm giác phiêu lãng, nhẹ
nhàng sau chuyến đi hành quân vất vả.
Đang trong mạch cảm xúc nhẹ nhàng, phiêu lãng nhà thơ Quang Dũng
đột ngột rẽ sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng, hoài niệm.
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Kỉ niệm gợi nhớ của nhà thơ bắt đầu từ khung cảnh “ chiều sương
ấy”. buổi chiều luôn gợi ra cho lòng người đọc nỗi buồn. Nỗi buồn ấy
có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ người thương hoặc có thể là sự vu v ơ tr ước
1 ngày tàn. Nhưng với nhà thơ đó là sự trống trải, luyến tiếc về hình
ảnh không rõ sự xác định là ai, theo ý thơ thì đó là “ h ồn lau”, “dáng
người” người đọc cảm nhận được 1 không gian vắng lặng đượm buồn
mênh mang. Các từ như “ có thấy, có nhớ” giống như 1 l ời g ợi nh ớ g ợi
nhắc tha thiết ân tình. Hình ảnh đối lập “ nước lũ” và “ hoa đong đ ưa,
một bên là sự dữ dội , một bên là sự nhẹ nhàng. Nhà thơ đã sử dụng
bút pháp lãng mạn cộng miêu tả để gợi hoài niệm nỗi nhớ về hình ảnh
thiên nhiên Mộc Châu.
Để khắc họa hình tượng chân dung người lính, nhà thơ đã sử d ụng bút
pháp lãng mạn để tô đậm cái hiện thực bi thương mà r ất đ ỗi phi
thường của người lính Tây Tiến tiêu biểu trong cuộc kháng chi ến
chống Pháp.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Đoàn “ binh không mọc tóc” có lẽ đây là sự thật tr ần tr ụi nh ất mà nhà
thơ Quang Dũng đã từng viết, các chiến sĩ Tây Tiến họ bị rụng tóc, da
dẻ xanh sao vì căn bệnh sốt rét rừng hoành hành. Ốm đau, bệnh tật là
vậy nhưng khí thế họ vẫn mang nét “ dữ oai hùm” tạo nên âm hưởng
hoành tráng, khí thế sẵn sàng của người lính kháng chiến chống Pháp
lúc bấy giờ.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Khí thế hùng dũng là vậy, tâm hồn những người lính Tây Tiến thật
mộng mơ. Nếu như ban ngày họ phải chiến đấu hết mình, “ mắt
trừng” là cái nhìn thẳng, sâu xa, thể hiện cái nhìn của ý chí, quy ết tâm
bảo vệ tổ quốc. Ban đêm khi cuộc chiến đã kết thúc, thì tâm hồn của
người lính lại mơ mộng nhớ về Hà Nội, nơi mà có những người mà họ
yêu thương nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh, nghị l ực chi ến
đấu. Đọc câu thơ này ta lại chợt nhớ đến câu thơ của nhà th ơ Nguy ễn
Đình Thi :
“ Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.
Thêm một lần nữa nhà thơ lại viết về sự hi sinh,nhưng lần này cái
chết được viết nên anh hùng, cao cả hơn,
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Viết về đau thương của cái chết nhưng không hề bi lụy, ai oán mà
ngược lại đầy dũng khí,hùng tráng. Giọng thơ hùng tráng xong mang
đậm nét buồn của sự hi sinh, trên con đường hành quân ấy, lòng h ọ
không thể không cảm thấy xót thương trước những nấm mồ viễn xứ
của những người chết trong chiến trận. Họ ra đi vì Tổ quốc nên không
hề hối tiếc, kể cả đó là thời xuân xanh. Tác giả mượn khéo hình ảnh
“Áo bào” để gợi tả sự ra đi của người lính. Nó gắn liền với sự trang
trọng, thiêng liêng, giảm bớt nỗi buồn bi lụy. Sông Mã một chứng nhân
lịch sử, đã tấu lên “ khúc độc hành” khúc ca tiễn các anh về v ới đ ất
mẹ. Động từ “ gầm” là 1 biện pháp nhân hóa, nỗi nhớ th ương c ủa lòng
người như vang vọng, đau đáu trong lòng những người ở lại.
“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc
thương nhớ nhưng vẫn mang âm hưởng bi tráng. Nói về li biệt nhưng
vẫn hùng tráng, mãnh liệt. Mong mỏi một ngày được gặp lại, nỗi nhớ
như tràn ngập cả không gian và thời gian, lời thơ như nhắn nhủ, ước
hẹn tha thiết, ân tình. Câu thơ cuối như mời hứa quyết tâm, nỗi nhớ v ề
đoàn binh đã in hằng sâu trong kí ức. Tây tiến trở thành một kỉ ni ệm
sương máu trong cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.
Qua bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân
dung, hình tượng bi tráng của người lính Tây Tiến trong cuộc cách
mạng vệ quốc, vừa chân thực vừa lãng mạn tiêu biểu cho sức mạnh
dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 2
Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt
Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc,
đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biết là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc
ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ m ộng c ủa n ơi
núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh
dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sáng hi sinh cho đất nước. Hình tượng
người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp r ất riêng, r ất l ạ,
đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.
Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lư Chanh, sau khi nhà thơ
dời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng
tác này đã cho thấy toàn bộ tác phẩm thấm đẫm trong nõi nhớ v ừa tha
thiết vừa thiêng liêng, khắc khoải.
Trong phần một và hai của bài thơ, nổi bật hơn cả là bức tranh thiên
nhiên và con người nơi rừng núi khi binh đoàn Tây Tiến đi qua, hình
ảnh người lính Tây Tiến chỉ xuất hiện một cách gián tiếp, nh ưng cũng
đã phần nào cho người đọc hình dung về hình ảnh của họ. Sang đến
phần thứ ba nhà thơ mới tập trung tất cả tình cảm cũng như tài năng
của mình để tạc vào văn học Việt Nam bức tranh chân dung sừng sững
về người lính Tây Tiến. Người lính được khai thác toàn diện từ ngoại
hình cho đến tâm hồn, lí tưởng, từ cuộc sống chiến đấu đến sự hi sinh.
Trước hết về ngoại hình, Quang Dũng đã đưa vào hình ảnh giàu chất
hiện thực:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực: không mọc
tóc, quân xanh màu lá. Những hình ảnh này đã xé bỏ t ất c ả cái nhìn ảo
tưởng, tô vẽ về cuộc sống cũng như sinh hoạt của người lính. Đ ể đ ưa
người đọc đến hiện thực trần trụi, gai góc khi do sự thi ếu th ốn v ề v ật
chất cũng nhưng sự hành hạ của bênh sốt rét rừng, hình ảnh những
người lính Tây Tiến đã bị biến dạng. Họ hiện lên với chân dung h ết
sức kì lạ: tóc rụng, da xanh như mùa lá. Hiện thực này cũng đã được
các thơ khác đề cập đến như:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa
Tuy nhiên đích đến của Quang Dũng không phải là hiện thực trần trụi
đó, mà từ hiện thực ấy nhấn mạnh vào ý chí, nghị lực phi thường của
người lính. Bởi vậy, nó đối lập với khó khăn, khắc nghiệt là hình ảnh
người lính hết sức oai phong. Dù nước da có xanh xao nh ưng ở đó v ẫn
hiện lên thần thái “dữ oai hùm”. Tạo nên hơi thơ gân guốc, r ắn r ỏi
cũng như bản lĩnh ngang tàng, sẵn sàng vượt lên khó khăn của người
chiến sĩ.
Quang Dũng tiếp tục đi sâu khai thác khía cạnh thứ hai tưởng như rất
đối lập nhưng kì thực lại rất thống nhất trong tâm h ồn ng ười lính Tây
Tiến, đó chính là tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hình ảnh “mắt trừng” diễn tả chính xác cái nhìn căm hờn, dữ dội mà
người lính dành cho kẻ thù. Ở đó ánh lên lòng căm thù giặc sâu sắc và
khát vọng giết giặc lập công, bảo vệ quê hương. Giấc mộng của
người lính là phương diện dễ nhận thấy nhất ở bất cứ ng ười chi ến sĩ
nào trong thời đại kháng chiến. Nhưng sự tinh tế, nhạy cảm của tác
giả ở chỗ ông nhìn sâu vào những góc khuất trong tâm hồn ng ười lính.
Hình ảnh “dáng kiều thơm” chính là dáng người thướt tha, mền m ại
của những cô gái Hà Thành, đồng thời cũng gợi đến hương hoa s ữa
nồng nàn đặc trưng của Hà Nội. Chính giấc mộng đó là động lực để
họ có thể sống, chiến đấu một cách anh dũng.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Tiếp tục sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đ ến đây Quang
Dũng lại đưa thêm hình ảnh đậm chất hiện thực. Không gian xa xôi,
biên viễn với những nấm mồ rải rác tạo nên cảm giac xót xa, tang tóc,
thê lương. Nhưng chất hiện thực lại không rơi vào sự bi lụy, bởi ngay
sau đó tác giả đã viết câu thơ khẳng định lí tưởng của người lính Tây
Tiến để cho cảm hứng của cái bi lụy trở thành bi tráng. Người lính Tây
Tiến ý thức rất rõ về quãng đời “xanh” – tuổi trẻ, mơ ước, khát v ọng,
đồng thời họ cũng ý thức ra chiến trường chấp nhận sự mất mát, hi
sinh. Nhưng cách ứng xử của người lính với cái chết không ph ải là s ự
run rẩy sợ hãi, mà là sự lựa chọn dứt khoát, chủ động. Hai ch ử “ch ẳng
tiếc” cùng với cấu trúc câu chủ động đã cho thấy rất rõ điều đó. Nhà
thơ Quang Dũng để người lính vào thử thách khắc nghiệt nhất, lựa
chọn giữa sống vào chết từ đó làm bật lên lí tưởng sống cao đẹp của
họ. Lí tưởng sống cao đẹp đó không chỉ của riêng binh đoàn Tây Tiến
mà còn là của tất cả những người lính: “Chúng tôi đã đi không ti ếc đ ới
mình/ Nhưng tuổi hai mười làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng ti ếc thì
còn chi tổ quốc/ Việt Nam ơi! Chỉ duy nhất cho Người/ Chúng tôi xin
chết”.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Câu thơ đầu tiếp tục là nét chạm khắc vô cùng chân th ực v ề hi ện th ực
thiếu thốn không chỉ đồng hành với người lính trong suốt quá trình
chiến đấy mà còn theo họ đến tận lúc hi sinh. Bởi vậy, ngay cả nghi
thức cử hành tang lễ sơ sài nhất cũng không có, họ phải lấy manh
chiếu bọc lấy thân. Bằng tất cả sự yêu thương, trân trọng, Quang Dũng
đã nâng cái chết có phần xót xa trở thành cái chết vô cùng trang trọng,
khi khoác lên mình đồng đội chiếc áo bào – trang trọng, uy nghi. Hai
chữ “về đất” là cách nói giảm, nói tránh để bớt đi sự buồn thương, mất
mát đồng thời tạo ra tâm thế rất nhẹ nhàng, thanh th ản c ủa ng ười lính
trước khi mất. Ở đây chết không phải là sự hi sinh mà là sự tr ở v ề v ới
đất mẹ. Và để tiễn đưa người lính về với đất mẹ, sông Mã đã g ầm lên
khúc độc hành dữ dội, hùng tráng để đưa những con người trở về với
cõi bất tử.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, ngôn từ tinh tế,
sắc sảo Quang Dũng đã thành công khi dựng lên chân dung người lính
Tây Tiến. Người lính Tây Tiến vừa mang trong mình ý chí, ngh ị l ực
kiên cường như bao chiến sĩ khác, vừa mang chiều sâu tâm hồn tài hoa
lãng mạn, một nét vẽ rất riêng. Hình tượng người lính Tây Tiến chính
là linh hồn cho toàn bộ bài thơ, nó đi vào văn h ọc Vi ệt Nam nh ưng m ột
trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.
Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến mẫu 3
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được
coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đo ạn
lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt
trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự
hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch
Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ H ồ tr ở thành hình t ượng
đẹp nhất, đáng tự hào nh ất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là
những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô th ắm lá c ờ
cho Tổ qu ốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa.
Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đ ội trong bài thơ “Tây Tiến”, một
bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng
chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.
"Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 19471947,
giữa những ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà N ội, trong đó
có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu
trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhi ệm v ụ
bảo vệ biên giới Việt- Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao
lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian kh ổ
nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài
thơ được viết ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang
Dũng rời xa đơn vị chưa lâu, Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến,
sau đổi lại là Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và con người Tây Tiến,
bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến
chống Pháp và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân
tộc. Nỗi nhớ ấy xuyên suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.
Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện sự thể hiện
nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta th ấy
được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây
Tiến:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà
nghe tha thiết như thế, nó như vọng vào không gian của con sông Mã,
quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom đó đã
để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách
hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa,
ngân mãi trong đêm: “ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính
tây tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai đ ịa danh Sài
Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác gi ả. Hai đ ịa
danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân tây tiến. “Đêm
hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là
đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh
của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những
chiến sĩ đoàn quân tây tiến hay chính là những hơi sương trong đêm
hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những
khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ
trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà nh ững