Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

nghị luận xã hội ngữ văn lớp 9

4bfcefdeb5574df8af9de92aca3ec207
Gửi bởi: hoanghaish 6 tháng 12 2016 lúc 1:43:17 | Được cập nhật: 23 tháng 5 lúc 22:56:09 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 653 | Lượt Download: 0 | File size: 0 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

-1-

CHUYÊN ĐỀ ÔN HỌC SINH GIỎI LỚP 9- PHÀN VĂN NGHỊ LUẬN TẬP
LÀM VĂN LỚP 9

PHẦN I: KHÁI QUÁT KIẾN THỨC LÍ THUYẾT
A. Vài nét khái quát chương trình Tập làm văn lớp 9
Chương trình Ngữ văn THCS nói chung, chương trình tập làm văn nói
riêng được thiết kế theo hai vòng, theo tinh thần lặp lại và nâng cao. Do cấu
trúc đồng tâm nên giữa hai vòng này có những điểm giống và khác nhau. Giống
trước hết là sự lặp lại của các vấn đề chính về kiến thức và kĩ năng. Chẳng hạn
ở chương trình Tập làm văn 9 lặp lại ở kiểu bài tự sự, thuyết minh và nghị luận.
Còn khác nhau là bổ sung thêm một số vấn đề khác đồng thời tiếp nối, nâng cao,
phát triển thêm những nội dung đã học ở vòng trước. Cụ thể như sau:
Trong chương trình tập làm văn lớp 9 kiểu bài văn thuyết minh được triển
khai nhằm mục đích củng cố, rèn luyện và nâng cao nhận thức, kĩ năng viết văn
thuyết minh cho học sinh đã được hình thành ở chương trình tập làm văn lớp 8.
Đối với học sinh lớp 9 khi làm bài văn thuyết minh cần biết vận dụng một số
biện pháp nghệ thuật hoặc yếu tố miêu tả, biểu cảm để đối tượng thuyết minh
hiện lên sinh động rõ nét.
Ở lớp 9 khi viết bài văn tự sự cần nâng cao hơn ở kĩ năng vận dụng các
yếu tố miêu tả, miêu tả nội tâm, yếu tố nghị luận, hay đối thoại, độc thoại , độc
thoại độc thoại nội tâm.
Đặc biệt hơn kiểu bài văn nghị luận là đơn vị kiến thức khá trọng tâm
trong chương trình tập làm văn lớp 9.
Ở chuyên đề này bản thân tôi tập trung đề cập đến kiếu bài văn nghị luận
còn kiểu bài văn thuyết minh, tự sự sẽ thể hiện cụ thể ở chuyên đề tập làm văn
lớp dưới.
B. Một số điểm cơ bản cần lưu ý về kiểu bài văn nghị luận trong chương trình
Tập làm văn lớp 9 cần lưu ý.
Có các dạng bài: bài văn nghị luận về vấn đề xã hội hoặc nghị luận tác
phẩm văn học.

-2-

I. Kiểu bài văn Nghị luận về một vấn đề xã hội
1. Phân loại
Trong chương trình Tập làm văn lớp 9 kiểu bài văn nghị luận xã hội chia làm
ba loại nhỏ: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí, nghị luận về một hiện
tượng xã hội, nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
2. Một số điểm giống nhau.
2.1. Loại
Các dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời
sống; nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học đều thuộc loại bài
nghị luận xã hội.
2.2 Các thao tác thường áp dụng khi viết bài:
Các dạng bài NLXH đều vận dụng chung các thao tác lập luận là giải thích,
phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản nhất là
giải thích, chứng minh, bình luận.
2.2.1 Thứ nhất về thao tác giải thích:
- Mục đích: Nhằm để hiểu
- Các bước:
+ Bước 1: Làm rõ vấn đề được dẫn trên đề. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là
một câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề
xuất, người viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ nghĩa của vấn đề theo cách đi từ
khái niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi
vấn đề được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống, người viết
cần cho biết đó là hiện tượng gì, hiện tượng đó biểu hiện ra sao, dưới các hình
thức nào (miêu tả, nhận diện)...Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đúng vấn
đề, xác định đúng vấn đề (hoặc mức độ) cần giải thích để chọn lí lẽ cần thiết.
Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu
hỏi Là gì?
+ Bước 2: Tìm hiểu cơ sở của vấn đề: Trả lời tại sao có vấn đề đó (xuất phát từ
đâu có vấn đề đó). Cùng với phần giải nghĩa, phần này là phần thể hiện rất rõ

-3-

đặc thù của thao tác giải thích. Người viết cần suy nghĩ kĩ để có cách viết chặt
chẽ về mặt lập luận, lô gíc về mặt lí lẽ, xác đáng về mặt dẫn chứng. Trong quan
niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi Tại sao?
+ Bước 3: Nêu hướng vận dụng của vấn đề: Vấn đề được vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống như thế nào. Hiểu nôm na, phần này yêu cầu người viết thể hiện
quan điểm của mình về việc tiếp thu, vận dụng vấn đề vào cuộc sống của mình
như thế nào.Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước
trả lời câu hỏi Như thế nào?
Lưu ý khi thực hiện thao tác giải thích: Nên đặt trực tiếp từng câu hỏi (Là
gì, tại sao, như thế nào vào đầu mỗi phần (mỗi bước) của bài văn. Mục đích đặt
câu hỏi: để tìm ý (phần trả lời chính là ý, là luận điểm được tìm ra) và cũng để
tạo sự chú ý cần thiết đối với người đọc bài văn. Cũng có thể không cần đặt trực
tiếp ba câu hỏi (Là gì, tại sao, như thế nào) vào bài làm nhưng điều quan trọng
là khi viết, người làm bài cần phải có ý thức mình đang lần lượt trả lời từng ý,
từng luận điểm được đặt ra từ ba câu hỏi đó. Tuỳ theo thực tế của đề và thực tế
bài làm, bước như thế nào có khi không nhất thiết phải tách hẳn riêng thành một
phần bắt buộc.
2.2.2 Thứ hai về thao tác chứng minh
- Mục đích: Tạo sự tin tưởng.
- Các bước:
+ Bước 1: Xác định chính xác điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.
+ Bước 2:

Dùng dẫn chứng trong thực tế cuộc sống để minh hoạ nhằm làm

sáng tỏ điều cần chứng minh, phạm vi cần chứng minh.
2.2.3 Thứ ba về thao tác bình luận
- Mục đích: Tạo sự đồng tình.
- Các bước:
- Nêu, giải thích rõ vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.
- Dùng lí lẽ và dẫn chứng (chủ yếu là lí lẽ) để khẳng định giá trị của vấn đề
hoặc hiện tượng (giá trị đúng hoặc giá trị sai). Làm tốt phần này chính là đã
bước đầu đánh giá được vấn đề (hiện tượng) cần bình luận.

-4-

- Bàn rộng và nhìn vấn đề (hiện tượng) cần bình luận dưới nhiều góc độ (thậm
chí từ góc độ ngược lại) để có cái nhìn đầy đủ hơn.
- Khẳng định tác dụng, ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống hiện tại.
3. Một số điểm khác nhau cơ bản giữa các kiểu bài
3.1 Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
3.1.1 Đề tài:
-Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập...).
-Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, lòng bao dung,
lòng độ lượng; tính trung thực, tính cương quyết, tính hoà nhã, tính khiêm tốn,
tính ích kỉ...).
-Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em...).
-Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương
đất nước...).
3.1.2 Về cấu trúc triển khai tổng quát:
-Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận (hiểu vấn đề cần nghị luận là gì).
-Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề bàn luận.
-Nêu ý nghĩa của vấn đề (bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí).
3.1.3.Một số đề tham khảo
- Tình thương là hạnh phúc của con người.
- “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” ý kiến trên của M.Xi-xêrông (nhà triết học La Mã cổ đại) gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về việc tu
dưỡng và học tập của bản thân?
- Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng:
“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình.
- Suy nghĩ của em về triết lí sau: “Đừng xin người khác con cá, mà hãy tìm học
cách làm cần câu và cách câu cá”.
- Trả lời câu hỏi điều tra của nhà bác học Hantơn, nhà bác học Đacuyn
nói về kinh nghiệm thành công của mình như sau: “Tôi nghĩ rằng tất cả những
gì có giá trị một chút, tôi đều đã thu nhận được bằng cách tự học”.

-5-

Bình luận câu nói trên. Anh, chị có suy nghĩ gì về con đường học tập sắp tới của
mình?
- “Nếu đứa trẻ dửng dưng với những gì đang diễn ra trong trái tim của
nguời bạn, người anh em, của bố mẹ mình hoặc của bất cứ một đồng bào nào
mà em gặp, nếu đứa trẻ không biết đọc trong mắt người khác điều đang xảy ra
trong trái tim người đó thì đứa trẻ chẳng bao giờ trở thành con người chân
chính”.
Em hãy bày tỏ ý kiến của mình về nhận định trên của nhà sư phạm
Xukhômlinxki.
- Bình luận danh ngôn: “Tiền mua được tất cả, trừ hạnh phúc”.
- Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân dịp Tết 1946, Bác
Hồ viết:
“Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là
mùa xuân của xã hội”.
Hãy giải thích và nêu suy nghĩ của em về lời dạy của Bác.
- Giải thích câu nói của Gorki: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân
trời mới”.
- Đồng chí Lê Duẩn có nói: “Cái gốc của đạo đức, của luân lí là lòng
nhân ái”. Em hiểu câu nói đó như thế nào?
- Nhà thơ Pháp La Phôngten (La Fontaine) có nói : “ Tính ích kỉ là thuốc
độc giết chết tình bạn”. Hãy bình luận câu nói trên.
- Suy nghĩ của em về câu danh ngôn: “Một người bạn chân thành là một
người bạn tốt ».
- Một nhà giáo dục đã nêu một quan niệm như sau: Con đường từ nhà
đến trường của mỗi người học sinh tuy khác nhau nhưng nơi đến ở cuối mỗi con
đường ấy đều giống nhau. ở đó, có một ngôi trường đầy tình thân và sự san sẻ.
Trình bày suy nghĩ của em về quan niệm đó.
-Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và
cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào
về ý kiến trên?

-6-

- Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học)
- Phải chăng bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi?
- “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có
phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống.
(Lép Tôn-xtôi)Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung và
trình bày lí tưởng riêng của mình.
- Phải chăng Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc
đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống.?
(Noóc-man Ku-sin, theo Những vòng tay âu yếm NXB Trẻ, 2003).
- Tiền tài và hạnh phúc.
- “Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận
dữ.
Anh, chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó?
3.2 Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống
3.2.1.Đề tài:
Những hiện tượng tốt hoặc chưa tốt cần được nhìn nhận thêm. Ví dụ :
-Chấp hành luật giao thông.
-Hiến máu nhân đạo
-Nạn bạo hành trong gia đình
-Phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi
-Cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn
-Cuộc đấu tranh chống nạn phá rừng
-Những tấm gương người tốt việc tốt
-Nhiều bạn trẻ quên nói lời xin lỗi khi mắc lỗi
-Nhiều bạn trẻ quên nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ
*Lưu ý:
- Nên quy thành từng cụm đề tài nhỏ như dạng bài NLVMTT, ĐL để dễ nhận
diện:
-Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập...).

-7-

-Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, lòng bao dung,
lòng độ lượng; tính trung thực, tính cương quyết, tính hoà nhã, tính khiêm tốn,
tính ích kỉ...).
-Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em...).
-Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn...).
3.2.2.Về cấu trúc triển khai tổng quát:
-Nêu rõ hiện tượng.
-Nêu nguyên nhân. Phân tích các mặt đúng-sai, lợi-hại.
-Bày tỏ thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội đó.
3.2.3.Một số đề tham khảo:
- Hiện nay, ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ
nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình
thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh,
tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
- Về hiện tượng ngày càng có nhiều người dời bỏ quê hương để đổ xô về các
thành phố lớn.
- Về hiện tượng nhiều người trong lớp trẻ hôm nay lạnh nhạt với âm nhạc truyền
thống.
3.3 Dạng nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học
3.3.1.Đề tài:
Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong tác phẩm văn học,
(Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học
trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn
mà HS chưa được học).
3.3.2.Về cấu trúc triển khai tổng quát:
a/Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện) để rút ra
ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện).
b/Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về ý nghĩa của vấn đề xã hội rút
ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện).

-8-

3.3.3.Một số đề tham khảo
- Suy nghĩ của anh (chị) từ ý nghĩa của câu chuyện Bến quê - Nguyễn Minh
Châu.
-

“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con

Từ bài ca dao, hãy bàn về vấn đề lẽ sống của con người Việt Nam.
4. Dàn bài
4.1 Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề được đưa ra nghị luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn tư tưởng đạo lí hoặc nội dung bao trùm của vấn
đề.
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư
tưởng, đạo lí này).
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và
hành động.
- Lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu).
c) Kết bài
Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc
dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
* Lưu ý:
- Muốn làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, trước hết hãy tìm hiểu sâu

-9-

về tư tưởng, đạo lí được đem ra bàn bạc.
- Tìm hiểu tư tưởng, đạo lí bằng cách phân tích, giải thích theo từng ý, từng vế
của vấn đề được nêu.
- Phát biểu nhận định, đánh giá của mình về tư tưởng, đạo lí đó.
Nêu các luận cứ và phân tích các luận cứ để khẳng định nhận định, đánh giá
của mình.
4.2 Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống
a) Cách viết mở bài
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng là một dạng văn bản. Vì
vậy, nó cũng cần bắt đầu bằng một mở bài. Và phần mở bài của nó dĩ nhiên
không thể đi ngược lại những nguyên tắc chung của mở bài.
- Nghị luận là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người muốn
được bàn luận và đánh giá về một hiện tượng (hoặc vấn đề) nào đấy. Mở bài
của một bài nghị luận hiện tượng đời sống phải thể hiện được định hướng đánh
giá và bàn luận đó thông qua những câu hỏi, hoặc những câu có tác dụng gợi
suy nghĩ, trăn trở trong người đọc (người nghe).
b) Cách viết thân bài
- Thân bài phải gồm đủ hai thành phần là bàn luận và đánh giá, để có
thể đáp ứng yêu cầu bình luận.
- Các ý của thân bài cần được sắp xếp sao cho người đọc (người nghe)
có thể tiếp nhận sự đánh giá, bàn luận của người làm văn một cách dễ dàng và
hứng thú, vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa khi nó thực sự hướng tới người đọc
(người nghe). Chẳng hạn:
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể tiếp nhận, và càng không thể tiếp
nhận một cách hứng thú những lời bình luận về một hiện tượng nếu họ còn mơ
hồ về cái hiện tượng được đưa ra bình luận ấy. Vì thế, trước khi bắt tay vào
đánh giá hay bàn bạc, người bình luận nên trình bày một cách trung thực, đầy
đủ, rõ ràng về hiện tượng đời sống mà mình sẽ đem ra bàn luận cùng người đọc
(người nghe).

-10-

Người bình luận không nên cố trình bày hiện tượng đời sống đó sao cho phù
hợp nhất với quan điểm của mình, vì việc làm ấy có thể sẽ mâu thuẫn với yêu
cầu khách quan, trung thực và từ đó sẽ khiến người đọc (người nghe) hoài nghi,
cảm thấy sự bình luận không thật công bằng, không vô tư.
Người bình luận cũng nên vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh trong lúc trình bày để bài văn của mình thêm chính xác, rõ ràng, sinh động
và do đó, thêm sức thuyết phục người đọc (người nghe).
- Người đọc (người nghe) sẽ không thể thực sự tin vào ý kiến của người nghị
luận, nếu cảm thấy ý kiến ấy chỉ là sự áp đặt một chiều. Sức thuyết phục của bài
nghị luận sẽ cao hơn nhiều khi người nghe có điều kiện so sánh ý kiến của người
nghị luận với những ý kiến đã được nêu ra trước đó. Do vậy, người làm văn nên
làm công việc điểm lại và nhận xét một cách hợp tình hợp lí các quan điểm
chính đã có về hiện tượng đời sống được đưa ra bình luận, trước khi đưa ra
quan điểm của bản thân mình.
Việc điểm lại và nhận xét các quan điểm chính đã có về hiện tượng đời sống nêu
ở đề bài rõ ràng cũng cần phải đạt được các yêu cầu khách quan, trung thực,
như vừa nêu ở điểm trên. Vì có thế thì người nghị luận mới mong đạt được mục
đích của mình.
- Khi nêu ra và bảo vệ quan điểm của riêng mình, người bình luận có thể đứng
hẳn về một phía, ủng hộ phía mình cho là đúng và phê phán phía mà mình chắc
chắn là sai. Người bình luận cũng có thể kết hợp những phần đúng và loại bỏ
phần còn hạn chế của mỗi phía để đi tới một sự đánh giá mà mình tin là thực sự
hợp lí, công bằng. Và cũng không loại trừ khả năng người bình luận đưa ra một
cách đánh giá khác biệt của riêng mình, sau khi đã phân tích các quan điểm ý
kiến khác nhau về đề tài cần bình luận.
Việc lựa chọn cách làm nào trong cách kể trên cũng hoàn toàn chỉ xuất phát từ
một và chỉ một cơ sở duy nhất - cơ sở chân lí. Và sau khi đã lựa chọn được một
cách thức phù hợp với chân lí (lẽ phải) rồi thì nhiệm vụ của người bình luận là
thuyết phục người nghe (người đọc) đặt niềm tin vào sự đánh giá của mình, như
chính mình đã từng có niềm tin như thế.

-11-

- Khi tiếp tục luận bàn sâu rộng hơn, người làm văn có thể đề cập tới thái độ,
hành động, cách giải quyết cần có trước hiện tượng vừa được nhận xét, đánh
giá, cũng có thể bày tỏ những cảm nhận, suy nghĩ mà mình đã rút ra khi liên hệ
với thời đại, hoàn cảnh sống, lứa tuổi của mình và của người đang lắng nghe
mình bình luận. Sự bàn luận còn có thể đạt tới tầm vóc lớn hơn, có giá trị cao
hơn nếu người bình luận có thể mở ra những ý nghĩa sâu rộng, sâu sắc và bất
ngờ nữa từ hiện tượng đời sống mà mình đang bình luận.
c)Cách viết kết bài
- Phần kết bài phải đóng được bài văn lại bằng một khẳng định chắc chắn,
không thể nào bác bỏ.
- ở một bài nghị luận hay, phần kết không chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là chốt
lại bài văn. Một phần kết chỉ thật hay khi nó còn mở ra được một phạm vi rộng
lớn hơn cho những suy ngẫm, những điều cần bàn luận tiếp.
* Lưu ý: Khi có đề văn yêu cầu nghị luận về một hiện tượng đời sống thì trước
hết phải tìm hiểu hiện tượng đời sống được nêu trong đề, phân tích các biểu
hiện của nó, lí giải các nguyên nhân và hậu quả.
Tiếp đến nêu ý kiến nhận xét, đánh giá hiện tượng đó tốt, xấu, lợi, hại như thế
nào. Chúng ta cần có thái độ ra sao đối với hiện tượng đó. Trên cơ sở suy nghĩ
đó mà lập dàn ý để cho bài viết mạch lạc, vận dụng kết hợp hợp lí các thao tác
nghị luận.
II. Kiểu bài Nghị luận về một tác phẩm văn học
1. Phân loại:
Kiểu bài văn nghị luận về một tác phẩm văn học được chia làm hai loại
nhỏ: nghị luận về tác phẩm truyện( đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ.
2. Khái niệm
- Nghị luận về tác phẩm truyện( Hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét,
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật một tác phẩm cụ
thể.

-12-

- Nghị luận về đoạn thơ hoặc bài thơ là trình bày những nhận xét đánh giá của
mình về nội dung hay nghệ thuật của đoạn thơ hay bài thơ ấy.
3. Một số thao tác cần lưu ý khi làm bài thuộc kiểu Nghị luận một tác phẩm
văn học.
- Bước 1: Nắm chắc nội dung toàn tác phẩm
Để biết mình đã nắm chắc tác phẩm hay chưa, bạn hãy trả lời các câu hỏi
sau. Tác phẩm này do ai sáng tác? Trong hoàn cảnh nào? Đề tài và chủ đề của
tác phẩm? Bạn có thể tóm tắt nội dung của tác phẩm đó chưa (đối với tác phẩm
văn xuôi)? Đối với tác phẩm thơ thì không chỉ nắm nội dung toàn tác phẩm bạn
còn phải học thuộc lòng những phần nội dung nằm trong chương trình học. Các
thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong tác phẩm này là gì? v.v
- Bước 2: trước một đề bài cần xem xét các dạng đề đối với tác phẩm đó (dạng
đề ở đây được hiểu là về thể loại và nội dung)
VD: Với tác phẩm Lão Hạc chúng ta có thể gắt gặp các dạng đề nghị luận về:
các nhân vật trong tác phẩm (Lão Hạc), giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác
phẩm, nghệ thuật miêu tả tâm lý và khắc họa nhân vật, nghệ thuật xây dựng tình
huống truyện...Ở mỗi dạng đề cần ddingj hướng được những ý chính.
- Bước 3: Lập dàn bài chi tiết cho từng dạng đề ở mỗi tác phẩm
Đối với mỗi dạng đề các bạn cần lập ra một dàn bài. Tuy mất thời gian
nhưng điều này sẽ giúp bạn lường hết mọi tình huống đề có thể bắt gặp và
không phải lúng túng khi làm bài .
* Với đề phân tích nhân vật, bao giờ các bạn cũng phải vạch cho mình hai
ý chính nhất: ngoại hình và tính cách. Bên cạnh đó một số yếu tố như: ngôn
ngữ, hành động, cử chỉ, nội tâm mối quan hệ với xã hội với các nhân vật khác.
Tất cả các yếu tố này tựu trung lại cũng bổ trợ và làm bật lên tính cách của
nhân vật. Song song với phân tích nội dung, các bạn cần lưu ý và nhấn mạnh
đến các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật.
+ Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm văn học thường mang tính hình
tượng, đại diện cho một tầng lớp, một thế hệ nên sau quá trình phân tích ngoại
hình và tính cách các bạn cần rút ra được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm

-13-

qua tác phẩm đó( Khái quát bình diện văn học).
+ Trong mỗi ý lớn như vậy sẽ có thêm nhiều ý nhỏ hơn, bạn hãy dùng một
mũi tên cho một ý để sơ đồ hóa dàn bài của mình. Và ở mỗi ý nhỏ, các bạn cần
tìm ra những dẫn chứng phù hợp minh chứng cho những đặc điểm đó. Dẫn
chứng chính là những đoạn trích trong tác phẩm, bạn cần học thuộc một số câu
văn tiêu biểu để minh chứng cho những ý kiến đánh giá của mình trong bài viết.
Qua phân tích những dẫn chứng đó nhân vật của bạn sẽ hiện lên với đầy đủ tính
cách, chân thực và sống động.
* Đối với dạng đề tổng hợp nghị luận về một vấn đề văn học (VD: giá
trị nhân đạo trong các tác phẩm của Nam Cao), chúng ta cần đi từ vấn đề bao
quát nhất:
+ Nhân đạo: Nhân đạo là gì?
+ Biểu hiện của tinh thần nhân đạo: Yêu thương con người, cảm
thông sâu sắc với những nỗi đau của con người, thông cảm với hoàn cảnh sống
của nhân vật (nhiều khi tinh thần nhân đạo được phản ánh ngay trong những
giá trị hiện thực), hướng con người một cuộc sống tốt đẹp hơn ...đều là những
biểu hiện của tinh thần nhân đạo.
+ Tinh thần nhân đạo trong tác phẩm của Nam Cao:
Khái quát về các tác phẩm của Nam Cao, các đề tài chính (đời sống của
người nông dân và trí thức nghèo)
Tinh thần nhân đạo thể hiện trong tác phẩm của Nam Cao như thế nào?
bằng những hình ảnh gì? trong tác phẩm nào? Vấn đề tác giả đặt ra trong tác
phẩm là gì?........
Giá trị nhân đạo biểu hiện trong tác phẩm của Nam Cao có gì khác so với
các nhà văn khác ở các tác phẩm khác không? (có thể so sánh với các tác phẩm
Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ) v.v
Lần lượt, bạn tự đặt ra những câu hỏi và trả lời cho câu hỏi của chính
mình. Điều này sẽ giúp bạn vạch được cho mình những ý chính thật đầy đủ. Sau
khi có được những ý chính bạn mới triển khai các ý phụ. Thêm vào đó bạn có
thể tham khảo các bài văn hay để bổ sung các ý cần thiết.

-14-

Bằng cách sơ đồ hóa dàn bài bằng những gạch đầu dòng và mũi tên sẽ giúp bạn
thấy rõ các ý mà mình định triển khai. Và như thế, việc sót ý là một điều hiếm
khi xảy ra khi bạn làm bài.
* Đối với dạng đề phân tích nội dung, nghệ thuật của tác phẩm cần
làm nổi bật được nội dung nghệ thuật chính của truyện có phân tích chứng minh
bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực, căn cứ vào từng tác phẩm để có cách
triển khai cụ thể. Cần liên hệ với các tác phẩm cùng đề tài cùng giai đoạn để
người đọc người nghe sâu sắc hơn về tác phẩm đang nghị luận.
- Bước 4: Viết bài và sửa chữa
+ Trong quá trình viết cần vận dụng đa dạng phong phú các phép lập luận.
Chú ý sử dụng ngôn từ không chỉ đúng mà cần phải hay, biểu cảm ( Ví dụ: Tôi
trở về thăm trường cũ. Có thể viết Tôi trở về thăm trường xưa. Nge như hay
hơn và hoài niệm hơn)
+ Khi viết chú ý vận dụng các phép liên kết để bài văn được lô gic chặt chẽ,
tự nhiên thuyết phục được người đọc người nghe..... Đặc biệt khi nghị luận một
bài thơ hoặc đoạn thơ có khác với nghị luận tác phẩm truyện ở chỗ: nếu nhưng
những xét đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện phải xuất
phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật, cách tạo dựng
tình huống truyện, cách xây dựng nhân vật.... thì những đánh giá về nội dung,
nhệ thuật của bài thơ, đoạn thơ lại được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng
điệu, các bút pháp nghệ thuật, cách ngắt nhịp.....Khi nghị luận một tác phẩm
truyện có thể tách dời giữa những nhận xét về nội dung và nghệ thuật nhưng
nghị luận thơ lại phải đi từ nghệ thuật đến nội dung...
+ Trong quá trìh triển khai các luận điểm, luận cứ cần thể hiện sự cảm thụ và
ý kiến riêng của người viết về tác phẩm.
+ Viết xong cần đọc lại và sửa chữa bài kịp thời.
3. Dàn ý đại cương
a. Nghị luận về tác phẩm truyện hay đoạn trích.
- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm( tùy theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và
nêu ý kiến đánh giá sư bộ của mình.

-15-

- Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm, có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
- Kết bài: Nêu nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện
( hoặc đoạn trích).
b. Nghị luận về đoạn thơ hoặc bài thơ
- Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét đánh
giá của mình( Nếu là phân tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy
trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó).
- Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dunh và
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
- Kết bài: Khái quát giá trị ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.

-16-

PHẦN II: MỘT SỐ BÀI TẬP THAM KHẢO

Đề 1: Phân tích truyện ngắn "Bến quê" của Nguyễn Minh Châu.
A. Mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm: Bến quê; tác giả: Nguyễn Minh Châu.
(Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Hàng loạt những truyện ngắn trăn trở, day dứt đã ra đời và đã một thời gây xôn
xao dư luận : từ Bức tranh mở đường cho sự đổi mới văn học vào những năm
đầu của thập kỷ 80 ở thế kỷ trước cho đến Phiên chợ Giát là tác phẩm cuối cùng
viết trên giường bệnh. Nhà văn đã từng bước khám phá cái thế giới nội tâm ở
mỗi con người trong những tình huống đầy mâu thuẫn và nghịch lý mà Bến quê
là một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện ngắn cùng tên được xuất bản năm
1985, bốn năm trước khi nhà văn từ giã cõi đời).
B. Thân bài :
1. Tóm tắt truyện: Cốt truyện thật đơn giản nhưng mang tính triết lý, mang tính
trải nghiệm sâu sắc có ý nghĩa tổng kết về cuộc đời của một con người : Nhĩ
mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường, phải nhờ vào sự chăm sóc của vợ con...
Một buổi sáng đầu thu, từ cửa sổ nhìn ra, đất trời lúc giao mùa với hoa bằng
lăng tím thẫm, với nước con sông Hông một màu đỏ nhạt...Rồi cái bãi bồi bên
kia sông hiện ra ...Nơi gần gũi mà cả đời Nhĩ dù đã đi khắp mọi nơi trên trái đát
lại chưa bao giờ đi tới đó...Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lê cái bờ bên
kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ...để rồi cuối cùng nhận ra cái quy
luật đầy nghịch lý của đời người : con người ta trên ường đời thật khó tránh
khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.
2. Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trên giường bệnh: