Chất hiện thực và chất lãng mạn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 31 tháng 7 2020 lúc 13:50:58 | Được cập nhật: 9 giờ trước (7:22:32) Kiểu file: DOC | Lượt xem: 294 | Lượt Download: 0 | File size: 0.06144 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề thi thử Tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ văn năm 2021
- Đề thi thử Tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn tỉnh Nghệ An năm 2020
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 17 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 16 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 40 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 38 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 35 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 39 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 36 năm 2021
- Đề thi thử tốt nghiệp THPTQG môn Ngữ Văn đề số 37 năm 2021
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Chất hiện thực và chất lãng mạn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Ngữ văn 12
“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con
người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa
quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn
chứng.
Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ
tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt
về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu
điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê
“mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt
hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm
thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.
Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ
vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ
nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong
“gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc
của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.
Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của
con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được
mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống
của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen
thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát
xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không
thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện
nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa
trong chất văn lãng mạn.
Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào
đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng
trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi
trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày
chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một
cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi
mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ
có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và
nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong
mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân
vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn
đen lại”.
Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ “êm như nhung và thoảng qua gió mát”.
Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu
mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn
nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “dõi
theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ
những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ
khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất
thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua
nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô
đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh
sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “chớp nhanh” trong cái nhìn lãng mạn.
Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt
phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong
cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một
bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt
người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để
kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm, nhưng tối nào chị cũng
góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy
lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban
đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối
thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng,
một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác
phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái
đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng
một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng
uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào
cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự,
ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân
dù rất buồn.
Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ
nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.
Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở
cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn
nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc bởi nội tâm sâu sắc
của một con người đa cảm.
Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man
mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ
xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh
tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn
nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho
chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng
buồn của Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố
huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt
một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.
Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là
cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống
của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống cùa cả một cộng đồng nhỏ
nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung
môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi
trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những
khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô
nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc
họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm
chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui
nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng
kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang
đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã
khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về
như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo
ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc
sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày
chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa
bao nhiêu sự xa xôi”, nhưng rồi Liên cũng phải “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên
tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé,
chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất
Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen
như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác
gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng
lớp xuất thân khác nhau.
Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc
sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa
hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo
được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là
một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam
đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố
huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn
trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn
với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông
một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã
đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.
Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người
như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là
thơ nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác
của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài
thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.
Bài làm 2
Nhớ tới nhà văn Thạch Lam người ta không chỉ nhớ tới một giọng văn trong sáng,
giản dị, thâm trầm nhưng sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn
có sự kết hợp giữa chất hiện thực và chất lãng mạn. "Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn
như vậy.
Tác phẩm được in trong tập "Nắng trong vườn" (1938), truyện ngắn này vừa tái
hiện bức tranh của một phổ huyện nghèo lại vừa như một bài thơ trữ tình đầy xót
thương. Chất hiện thực chính là hiện thực cuộc sống, là những gì chân thật nhất, không
tô vẽ. Chất hiện thực của truyện ngắn này được thể hiện qua cuộc sống của những con
người nơi phố huyện. Đó là những con người tàn sống trong cái ao đời phẳng lặng.
Chị Tí ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước, ngày nào cũng dọn
hàng từ chập tối cho đến đêm mà cũng chẳng được bao nhiêu. Vị khách hàng của chị
rất hiếm hoi. Chị bán nước cho mấy người phu gạo, phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú
lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm.
Gánh hàng phở của bác Siêu cũng trở nên xa xỉ với cuộc sống của người dân nơi
đây bởi đó là một thứ quà đắt tiền. Bên cạnh đó là vợ chồng nhà bác xẩm góp chuyện
bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác
bẩn vùi trong cát bên đường. Cửa hàng của chị em Liên trông coi cũng không khá hơn
là mấy, ngày phiên mà cũng chỉ bán được hai bánh rưỡi xà phòng. Bà cụ Thi điện đến
mua hàng rồi ra về trong tiếng cười khanh khách đầy ma quái chìm vào trong bóng tối.
Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, lá nhân và lá
mía. Người ta nói để biết mức sống của người dân ở một nơi người ta dựa vào cảnh
họp chợ. Nhưng ở đây Thạch Lam lại miêu tả cảnh chợ tàn ở phố huyện Tất cả những
con người ấy đều kiểm sống bằng nghề buôn bán nhỏ, manh mún, cuộc sống thì lay
lắt, gợi một sự đáng thương đến tội nghiệp.
Đó là bức tranh hiện thực về con người và bức tranh về cảnh vật thiên nhiên nơi
đây cũng không tươi sáng là bao. Từng tiếng trông thu không vang ra để gọi buổi
chiều, có âm thanh nhưng không gian hết sức tĩnh lặng. m thanh của tiếng ếch nhái,
tiểng muỗi vo ve không đủ phá tan đi bầu tĩnh lặng đó. Chừng ấy những con người chỉ
trông chờ vào chuyến tàu đêm đi qua phố huyện để có được một chút ánh sáng và sự
sống.
Bên cạnh chất hiện thực, chất lãng mạn của truyện ngắn này cũng được tác giả thể
hiện khá rõ nét.
Chất lãng mạn được bộc lộ qua những diễn biến tâm lý của nhân vật, qua bức
tranh thiên nhiên, qua giọng điệu, ngôn ngữ tác phẩm. Trước tiên, bằng giọng điệu tâm
tình đầy cảm xúc, Thạch Lam đã dẫn dắt chúng ta vào một bức tranh quê khá yên bình
nhưng cũng đầy thơ mộng. Miền quê ấy có "phương tây đỏ rực như lửa cháy và những
đám mây ánh hồng như hoàng hôn sắp tàn". Hay việc nhà văn đã miêu tả buổi chiều ấy
thấm đượm cả hồn quê: "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Miền quê ấy không có những
ánh đèn sáng trưng mà chỉ có những khe sáng, hột sáng. Nhà văn miêu tả buổi đêm ở
phổ huyện thật lãng mạn và trữ tình: "Trời đã bắt đầu đếm, một đêm mùa hạ êm như
nhung và thoảng qua gió mát". "Vòm trời hàn ngàn ngôi sao gánh nhau lấp lánh, lẫn
với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành
cây". Chị em Liên thì ngước mắt nhìn các vì sao để tìm sống Ngân Hà và con vịt theo
sau ông Thần Nông. Có thể nói, bức tranh quê ấy đã góp một phần không nhỏ vào tính
chất lãng mạn của truyện ngắn này.
Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã tô đậm thêm chất lãng mạn của
bức tranh toàn cảnh nơi đây. Thạch Lam đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Liên
rất chi tiết. Đó là một cô gái mới lớn, giàu lòng trắc ẩn. Chị cảm thấy "lòng buồn man
mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Liên cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê
hương này. Liên rất thương những đứa trẻ nhặt nhạnh. sau phiên chợ nhưng chính chị
cũng không có gì để cho chúng. Liên thương những kiếp người tàn tạ trong cuộc sống
mòn mỏi này trong đó có cả bản thân mình. Chị là một người nhân ái và có lòng trắc
ẩn. Khi đoàn tàu đêm đi qua, Liên chưa bao giờ nhận thấy phố huyện tối đến thế, ngọn
đèn chị Tỉ lại yếu ớt đến như vậy. Trong giấc mơ chập chờn, chị thấy mình giống như
ngọn đèn hàng nước của mẹ con họ càng cố gắng tỏa sáng thì lại càng nhỏ bé, yếu ớt.
"Hai đứa trẻ" được đánh giá là truyện không có cốt truyện mà chỉ có một sự kiện
duy nhất, đó là sự kiện đại đoàn tàu của chị em Liên. Giọng văn bàng bạc, nhẹ nhàng
thẩm đượm màu sắc trữ tình thơ mộng. Có thể nói chất hiện thực và chất lãng mạn đã
quyện hòa vào nhau để tạo nên thành công của tác phẩm nói riêng và thành công trong
sự nghiệp văn chương của Thạch Lam nói riêng.