Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Đất nước (Nguyễn Đình Thi)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 10:29:57


Mục lục
* * * * *

Phân tích và nêu cảm nghĩ về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

 "Đất nước" là bài thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác và hoàn thành trong thời gian khá dài (1948 – 1955) theo hành trình và phát triển đi lên của đất nước và dân tộc.

    "Đất nước" in trong tập thơ "Người chiến sĩ" của tác giả.

    Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi thể hiện những cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam hiền hòa, đẹp tươi, trong đau thương đã quật khởi đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng với sức mạnh phi thường.

    Vẻ đẹp đất nước khi mùa thu về

    Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp của đất nước khi mùa thu về:

    Sáng mát trong như sáng năm xưa

    Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

    Nguyễn Đình Thi chỉ gợi sắc thu, khí thu (mát trong), về gió thu về hương thu (hương cốm mới). Một cách viết hàm súc mở ra bao liên tưởng về bầu trời thu trong xanh, bao la và khí thu mát mẻ mơn man hồn người, về gió thu nhè nhẹ thổi từ những cảnh đồng lúa mang theo hương cốm mới phả vào lòng người lâng lâng. Đó là vẻ hiền hòa, tươi đẹp của đất nước đã bao đời nay.

    Đoạn thơ tiếp theo là hoài niệm của "người ra đi" về "những ngày thu đã xa" – thu Hà Nội:

    Tôi nhớ những ngày thu đã xa

    Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

    Những phố dài xao xác hơi may

    ra đi đầu không ngoảnh lại

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

    "Chớm lạnh" là cái lành lạnh đầu thu; chỉ có sáng và chiều thu trong buổi thu sơ mới "chớm lạnh" như thế. Hà nội như mở rộng lòng đón nhận cái "chớm lạnh" đầu thu. Hơi may tỏa khắp mọi nơi. Lá thu, lá vàng rụng bay bay, xoay xoay theo chiều gió, để lại tiếng thu xao xác trên những phố dài.

    Cảnh giã biệt phố cũ của "người ra đi" buồn lẳng lặng. Khách chinh phu của thời đại "ôm chí nhớn" ra đi, cố nén lại bao tâm tư trĩu lòng. "Đầu không ngoảnh lại" là một tâm thế của li khách. "Người ra đi" xa dần, xa dần năm cửa ô, chốn cũ yêu thương, tuy "đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm thấy có bao nhiêu nắng thu, lá thu "rơi đầy" trên hè phố, thềm đường ở phía sau lưng mình. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Tâm trạng của người ra đi buổi sáng sớm đầu thu ngày xưa ấy như vương vấn mang theo một mảnh trời thu Hà Nội với nắng vàng và lá thu rơi. Có nhiều người đã đưa ra các cách ngắt nhịp cảm thụ vẻ đẹp câu thơ cuối đoạn: ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3; lại có người cho rằng nên ngắt nhịp 2/5 để làm rõ chủ thể trữ tình với không gian nghệ thuật:

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

    Qua đoạn thơ, ta thấy ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi thật là tài hoa. Lời thơ trong sáng, dịu buồn. Vẻ đẹp và hồn thu đất nước, hồn thu Hà Nội như được tinh lọc trong tâm hồn tác giả, trở thành hành trang của "người ra đi".

    Cuộc đời đã đổi thay, đất nước đã đổi thay nên vẻ đẹp mùa thu đất nước cũng đổi thay kì lạ. Câu thơ bảy tiếng bỗng co ngắn lại, giọng thơ như một tiếng reo cất lên náo nức:

    Mùa thu nay khác rồi

    Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

    Gió thổi rừng tre phấp phới

    Trời thu thay áo mới

    Trong biếc nói cười thiết tha.

    Không gian nghệ thuật được nói đến là núi đồi chiến khu, là "rừng tre phấp phới" trong gió thu. Cả một trời thu bao la, xao động, tươi sáng lên, ánh lên tươi thắm như "thay áo mới". Đất nước buổi thu vẻ đẹp tươi lạ thường và dào dạt sức sống. Có sắc thu "trong biếc", có tiếng thu là âm thanh "nói cười thiết tha" xôn xao. Hình ảnh "tôi đứng vui nghe" biểu lộ một tâm thế một tư thế, một cảm xúc nhiều thơ mộng, nhiều tự hào trước vẻ đẹp và niềm vui khi đất nước vào thu. Đó là mùa thu chiến khu Việt Bắc, mùa thu kháng chiến thời chống Pháp.

    Những câu thơ bảy tiếng, năm tiếng đan xen vào nhau hòa quyện vào nhau tạo nên giọng thơ mạnh mẽ, hào hùng. Hình ảnh đất nước hiện lên tráng lệ hùng vĩ với "trời xanh", với "núi rừng", với những cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông… Các tính từ: "xanh, thơm mát, bát ngát, đỏ nặng" là những nét vẽ, những gam màu tô đậm cái hồn đất nước, không chỉ là một giang sơn gấm vóc mà còn biểu lộ biết bao yêu mến tự hào về sự bền vững của đất nước bốn nghìn năm. Các điệp ngữ "đây là của chúng ta", "những" (cánh đồng, ngả đường, dòng sông) như những nốt nhấn, lúc bổng, lúc trầm của bài ca Tổ quốc, thể hiện ý chí tự lập tự cường và tinh thần làm chủ đất nước của quân và dân ta. Ngọn gió thời đại, ngọn gió của cách mạng và kháng chiến đã làm cho những vần thơ viết về mùa thu, về đất nước của Nguyễn Đình Thi cất cánh bay lên. Đây là đoạn thơ đẹp nhất trong bài thơ "Đất nước", trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua:

    Trời xanh đây là của chúng ta

    Núi rừng đây là của chúng ta

    Những cánh đồng thơm mát

    Những ngả đường bát ngát

    Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

    Khổ thơ tiếp theo, tác giả nói lên những suy ngẫm về đất nước và dân tộc. Lời thơ vang lên như một tuyên ngôn về Tổ quốc và dáng đứng Việt Nam trong trường kì lịch sử:

    Nước chúng ta

    Nước những người chưa bao giờ khuất

    Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

    Những buổi ngày xưa vọng tiếng về.

    Câu thơ thất ngôn bỗng rút ngắn lại còn ba tiếng; vần trắc (khuất – đất) như dồn nén lại, thắt lại, làm cho âm điệu thơ trầm hùng thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Tiếng nói của tổ tiên ông bà, tiếng gươm khua trên sông Bạch Đằng, "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, … vẫn "đêm đêm rì rầm trong tiếng đất", vẫn "vọng nói về", nhắn nhủ con cháu ngẩng cao đầu đi tới để bảo vệ và xây dựng đất nước hùng cường bền vững đến muôn đời.

    Đất nước trong máu lửa

    Phần thứ hai bài thơ nói về đất nước trong máu lửa. Một chữ "ôi" cảm thán cất lên đau đớn nghẹn ngào:

    Ôi những cánh đồng quê chảy máu

    Dây thép gai đâm nát trời chiều

    Những đêm dài hành quân nung nấu

    Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

    Các từ ngữ "chảy máu", "đâm nát" gợi tả cảnh đau thương của đất nước đang bị quân thù chiếm đóng, dân ta đang bị quân giặc tàn sát dã man. Luống cày, cánh đồng "chảy máu" . đồn giặc dựng lên khắp nơi . bầu trời quê hương đang bị "đâm nát " bởi trùng trùng giây thép gai đồn giặc. Người chiến sĩ hành quân ra trận với sức mạnh của lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương. Các từ láy "nung nấu" , "bồn chồn" diển tả thật hay quyết tâm và tình cảm mảnh liệt, sâu sắc ấy.

    Trong chiến đấu gian lao và đau thương càng thấy vẽ đẹp quê hương " ngời lên". Lòng căm thù giặc càng thêm "sục sôi". Các từ " bay, thẳng, đứa" thế hiện lòng căm thù, sự khinh bỉ của nhân dân ta đối với quân xâm lược.

    Thằng giặc tây, thằng chúa đất

    Đứa đè cổ đứa lột da.

    Độc lập tự do là lí tưởng chiến đấu, là niềm tin "đi tới và làm nên thắng trận". Tác giả phủ định: quân thù "không khóa được", "không bắn được", để từ đó khẳng định sực sống bền vững của đất nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Câu thơ như một chân lí lịch sử được cô đúc mà thành:

    Trời đầy chim và đất đầy hoa

    Lòng dân ta yêu nước thương người.

    Cuộc kháng chiến chống pháp( 1946 - 1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh do đảng và bác hồ lãnh đạo, mang tính chất toàn dân, toàn diện, trường kì, nhất định thắng lợi. Cả đất nước, cả dân tộc quất khởi đứng lên. Cảnh tượng thật hào hùng đang diễn ra khắp mọi miền đất nước, từ rừng núi chiến khu đến khắp các cánh đồng làng quê:

    Khói nhà máy cuộn trong sương núi

    Kèn gọi quanh văng vẳng cánh đồng.

    Anh bồ đội Cụ Hồ là người nông dân mặc áo lính. Người anh hùng thời đại là "những người áo vải", là la văn Cầu, Củ Chính Lan, Nguyễn Quốc Trí, Nguyễn Thị Chiến, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diệu... là hàng ngàn hàng vạn thanh niên yêu tú của đân tộc.

    Ôm đất nước những người áo vãi

    Đã đứng lên thành những anh hùng.

    Con đường ra trận kéo dài hơn ba ngàn ngày khói lữa. Có biết bao máu đổ sương rơi. Trong "nắng đốt" và " mưa giội", trong chiến đấu và hi sinh, niềm tin vào một ngày mai chiến thắng, về đất nước độc lập, hòa bình tỏa sáng tâm hồn quân và dân ta như ngọn lữa " cháy rực" như ánh bình minh "bát ngát":

    Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

    Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

    Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

    Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

    Đất nước chiến thắng

    Được viết theo thể thơ lục ngôn:

    Người lên như nước vỡ bờ

    Nước việt nam từ máu lữa

    Rũ buồn đứng dậy sánh lòa.

    Tác giả đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ "tức nước vỡ bờ" để ca ngời tư thế và sức mạnh chiến đấu và chến thắng của dân tộc ta . tác giả cho biết "Rũ buồn đứng dậy sáng lóa" là hình ảnh của người chiến sĩ Điện Biên từ các chiến hào dũng mãnh xông lên trong những ngày tổng công kích đấu tháng 5-1954.

    "Đất nước" là hồn thơ chiến sĩ, tiêu biểu cho bốn hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Viết về chủ đề quê hương , đất nước trong chiên tranh, thơ Nguyễn Đình Thi mang tính khái quát , chất trưc tình đằm thắm kết hợp hài hòa với chất chính luận sâu sắc để lại một số câu thơ, đoạn thơ đẹp, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, sắc nét, chan chứa nồng độ súc cảm. Câu thơ biến hóa : thất ngôn, lục ngôn, có lúc đán sen vào câu thơ ba tiếng , năm tiếng đã làm cho giọng thơ biến hóa: lúc man mác, bồn chồn, luc dồn dập mạng mẽ.

    Hình tượng đất nước vừa mang vẽ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến.

    "Đất nước" là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẽ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.

Bình giảng 7 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

 Thu Hà Nội, hồn thu Thăng Long từng để thương để nhớ vơi đầy trong lòng người đã bao lâu nay. Một dáng liễu Cổ Ngư, một tiếng chuông chùa Trấn Vũ, một "mặt gương Tây Hồ", một màu vàng "hồn thu thảo", một ánh trăng thu Cổ thành… tất cả đã "hóa tâm hồn" mỗi chúng ta:

    "Trăng ơi đừng bỏ Kinh thành

    Hồn cố đô vẫn thanh bình như xưa".

            Trăng Kinh thành

    Thu Hà Nội đẹp, một vẻ đẹp mơ màng thơ mộng man mác bâng khuâng. Thu li biệt Hà Nội trong thơ Nguyễn Đình Thi hơn nửa thế kỉ trước cứ vương vấn mãi hồn ta:

    "Sáng mát trong như sáng năm xưa

    Gió thổi mùa thu hương cốm mới

    Tôi nhớ những ngày thu đã xa

    Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

    Những phố dài xao xác hơi may

    Người ra đi đầu không ngoảnh lại

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"…

    Đoạn thơ gợi lên một nét thu Hà Nội trong tâm hồn "người ra đi" – một khách chính phụ của thời đại mới. Cấu trúc đoạn thơ là từ cảm xúc thu hiện tại mà "nhớ" những ngày thu đã xa, một mùa thu li biệt Kinh thành ngàn năm. Hai câu thơ mở đầu bài thơ "Đất nước", Nguyễn Đình Thi xúc động nói lên cái hồn thu đất nước muôn đời:

    "Sáng mát trong như sáng năm xưa

    Gió thổi mùa thu hương cốm mới"

    Những buổi sáng mùa thu, thu năm xưa cũng như thu hiện tại, không khí trong lành, bầu trời trong xanh, không một gợn mây, thoáng đãng, mênh mông, bao la "xanh ngắt mấy tầng cao" (Nguyễn Khuyến). Gió thu nhè nhẹ thổi mát hồn người và lòng người, ai cũng cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng, lâng lâng. Chỉ hai chữ "mát trong" mà nhà thơ đã nhận diện vẻ đẹp của sắc thu, khí thu và hồn thu muôn đời của đất nước. Câu thơ thứ nhất là một so sánh rất gợi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa". Đất nước trải qua những năm dài chiến tranh, bao mùa thu đã trôi qua, nhưng đất nước vào thu vẫn "mát trong", vẫn đẹp như thế! Đất nước bền vững muôn đời nên thu vẫn đẹp muôn đời.

    Câu thơ thứ hai nói lên hương thu của đất nước: "hương cốm mới". Gió thu thổi qua những cánh đồng, mang theo hương "lúa nếp thơm nồng", "hương cốm mới" phả vào lòng người, ủ ấp hồn người cái hương vị quyến rũ, đậm đà của quê hương xứ sở. Câu thơ cho thấy chất tài hoa, chất Hà Nội trong thơ Nguyễn Đình Thi. Có lẽ lần đâu tiên "hương cốm mới" hiện diện trong thơ? Trong văn xuôi, Thạch Lam và Vũ Bằng đã viết rất thơ về cốm Vòng Hà Nội. Cốm là "thức quà riêng của đất nước", là "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Trong cốm có "cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ; trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc"…

           Hà Nội 36 phố phường, 1943, Thạch Lam

    Với Vũ Bằng, trong những năm dài đất nước bị chia cắt, cùng với nỗi buồn của kẻ xa xứ là nỗi buồn nhớ Bắc Việt, nhớ Hà Nội – quê mẹ mến yêu. Suốt đêm ngày năm tháng, nỗi thương nhớ như trải dài, như dồn tụ lại thành "Thương nhớ mười hai". Mùa thu chớm đến, ông ao ước "Không biết đến bao giờ mới lại được nghe thấy hơi may về với hoa vàng"? Ông khắc khoải tự hỏi: "Mà ở đâu đây có cái hương thơm gì mà dìu dịu thế? Ông nhớ khôn nguôi "hương lúa ba giăng". Ông nhớ day dứt cái vị "thơm ngọt ngào mùi chuối trứng cuốc ngon lừ! Quân thù nào có thể chia cắt được đất nước, có thể làm vơi cạn, khô kiệt được nỗi nhớ ấy? Qua đó, ta cảm nhận được "hương cốm mới" trên trang văn của Thạch Lam, của Vũ Bằng, trong thơ Nguyễn Đình Thi là nét đẹp của mùa thu đất nước, là hồn thu Thăng Long – Hà Nội mến yêu.

    Ba câu thơ tiếp theo nhắc lại nỗi nhớ "những ngày thu đã xa", buổi đầu thu "trong lòng Hà Nội". Cảm xúc dồn nén, hoài niệm rung lên như dây tơ của cây nguyệt cầm với bao man mác:

    "Tôi nhớ những ngày thu đã xa

    Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

    Những phố dài xao xác hơi may".

    "Những ngày thu đã xa" là những ngày thu giã biệt Hà Nội, ra đi vì nghĩa lớn, vì đất nước và dân tộc thân yêu. Cuộc giã biệt ấy đã để lại trong lòng nhà thơ bao nỗi nhớ. "Nhớ" cái "chớm lạnh" buổi đầu thu, cái lạnh se sắt của gió thu hiu hiu. Hai chữ "chớm lạnh" rất tinh tế trong gợi tả và biểu cảm, vừa diễn tả cái lành lạnh những buổi sáng sớm đầu thu, vừa thể hiện chất xúc giác trong cảm nhận. Trong hơi may lành lạnh còn có âm thanh "xao xác" của lá thu bay trong gió, nhẹ cuốn trên hè phố, trong lòng đường của "những phố dài" Hà Nội. Từ láy "xao xác" là tiếng thu, của lá vàng rơi, của những nhánh cây khẽ rùng mình trong hơi may "chớm lạnh" mà thi sĩ Xuân Diệu đã từng xúc động:

    "Những luồng run rẩy rung rinh lá

    Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"

           Đây màu thu tới

    Thu xưa trong thơ, màu thu Hà Nội thắm bao nỗi buồn man mác , bâng khuâng. Thoáng buồn trong "xao xác hơi mây" của lá thu bay, của "mái buồn nghe sấu rụng" ( Chính Hữu). Chỉ bằng một vài nét vẽ, một vài chi tiết nghệ thuật về những ngày thu hà nội " những ngày thu đã xa", trong đó có cái "chớm lạnh" của hơi mây cảm được. Có cái "xao xác" của lá thu bay nghe được, Nguyễn Đình Thi đã để lại trong lòng mỗi chúng ta cái hồn thu Kinh thành văn hiến ngàn năm. Phải là người tài hoa, mang tình yêu sâu nặng đối với Hà Nội mới viết được những vần thơ hàm súc, đep mà buồn như thế. Đoạn thơ ấy đã được khơi nguồn cảm hứng từ bài thơ "Sáng mát trong như sáng năm xưa" (1948), hoài niệm trào dâng, đồng hiện trong một không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đầy ấn tượng:

    "Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em

    Gió thổi mùa thu vào Hà Nội

    Phố dài xao xác hơi mây

    Nắng soi ngõ vắng

    Thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy".

    Hai câu cuối đoạn thơ thể hiện tâm trạng người ra đi từ ngày thu ấy. Giọng thơ lẳng lặng buồn:

    "Người ra đi đầu không ngoảnh lại

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".

    "Người ra đi" theo tiếng gọi của Non Sông, "lên chiến khu"? " Người ra đi mang theo bao kỉ niệm sâu sác về mùa thu hà nội". . "Hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trong "hơi mây" buổi đầu thu, cái "xao xác", của lá me, lá sấu bay trong "những phố dài" , Hà Nội đã trở thành hành trang, đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, thân thiết. " Người ra đi " ôm " trí nhớn " của một " li khách" với quyết tâm "Đầu không ngoảnh lại" ! Câu thơ "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" là môt câu thơ thật hay. Có màu vàng nhạt của nắng thu, có sắc vàng tươi của lá thu đã "rơi đầy", đã trải dài trải rộng trên thềm phố. Câu thơ chứa đầy tâm trạng tác giả đã lấy ngoại cảnh, lấy nắng thu, lá thu để gợi tả tình lưu luyến. Ra đi với quyết tâm"đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm nhận được "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" với bao tình lưu luyến nhớ thương. Vì thế, trải qua bao năm tháng, bao mùa thu trôi qua, đến "mùa thu nay...", "tôi đứng vui nghe giữa núi đồi" mà vẫn bâng khuông "nhớ những ngày thu đã xa". Nhớ thu xa cũng là nhớ Hà Nội, nhớ ngày dã biệt ra đi... mọi cuộc lên đường đều đáng nhớ. Quên sao được Đông Đô – Thăng Long – Hà Nội mếm yêu! Quên sao được Hồ Tây, Hồ Gươm, chợ Đồng Xuân, ô chợ Dừa... "đi học về qua luôn hát vui ca". Người chiến sĩ từ mọi chiến trường mà nhớ về Hà Nội với tất cả niềm yêu thương tự hào:

    "Từ thuở mang gươm đi giữ nước

    Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"

           Huỳnh Văn Nghệ

    "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".

           Quang Dũng

    "Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa

    Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng..."

           (Chính Hữu)

    Đoạn thơ trên đây là phần đầu bài "Đất Nước", một bài thơ đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Thi. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả. Cảm xúc dồn nén, hình ảnh và ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Các chi tiết nghệ thuật rất ngợi khi nói về thu Hà Nội. Mùa thu " ra di", mùa thu dã biệt... Nét thu Hà Nội đẹp mà buồn, mang mác trong hoài niệm cũng là hồn thu muôn đời của đất nước. Một cái "chớm lạnh" đầu thu. Một cái "xao xác" của lá thu rơi, một mùi "hương cốm mới" được làn gió thu mang theo và tỏa rộng trong không gian, thấm sâu vào hồn người. Một màu vàng tươi, vàng nhạt của nắng, của lá thu rơi đầy thềm... làm ta vương vấn mãi.

    Thơ đích thực làm phong phú, thanh cao tâm hồn. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi đem đến cho ta một tình yêu đẹp : yêu Hà Nội mến yêu!

Bình giảng khổ 3 bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

 Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đích thực tài hoa và sáng tạo. Trên các lĩnh vực văn xuôi, thơ, nhạc, kịch bản văn học, lí luận phê bình, ... ông đều có thành tựu đáng tự hào. Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ. Thơ ông giàu cảm xúc khi viết về đất nước trong chiến tranh.

    Bài thơ "Đất nước" trích trong tâp thơ "Người chiến sĩ" , nó được thai nghén và hình thành trong một thời gian khá dài từ năm 1948-1955.Từ thực tiễn lịch sử và sự sống còn của dân tộc, nhà thơ suy ngẫm về đất nước.

    Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cảm hứng quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

    Biểu lộ niềm vui phơi phới của người chiến sĩ cầm súng đánh giặc bảo vệ quê hương, thể hiện tình yêu và lòng tự hào về đất nước với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và truyền thống anh hùng của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã viết:

    ... "Mùa thu nay nay khác rồi

    ...

    Những buổi ngày xưa vọng nói về".

    Cảm hứng yêu nước, tự hào dâng lên dào dạt trong tâm hồn nhà thơ,trong tâm hồn những người chiến sĩ "đã đứng lên thành những anh hùng. Người chiến sĩ đã ra đi từ mùa thu ấy, khi "cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng" (Chính Hữu), giã từ phố cũ thân yêu, dấn thân vào lửa máu.

    Đối lập với "những ngày thu đã xa" đẹp mà buồn, là "Mùa thu nay khác rồi".Nhà thơ reo lên sung sướng tự hào, một niềm vui phơi phới dâng trào. Đứng giữa núi đồi chiến khu, say mê ngắm đất trời. Thiên nhiên bao la tươi đẹp như xôn xao niềm vui với con người. Bốn chữ "tôi đứng vui nghe" thể hiện một tư thế, một dáng đứng kiêu hãnh tuyệt vời.Con người chan hòa cùng cây cỏ và say đắm trong màu săc quê hương. Ngọn gió mát lành màu thu "quyện hương cốm mới" như hát cùng đất nước.Hình ảnh "rừng tre phấp phới" diễn tả thật hay sức sống mãnh liêt của đát trời quê hương:

    "Mùa thu nay khác rồi

    Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

    Gió thổi rừng tre phấp phới...".

    Mùa thu lại về với đất nước và con người trong sắc màu tươi sáng: "Mùa thu thay áo mới – Trong biếc nói cười thiết tha". Bao trùm đất nước là cả một không gian bao la, một thiên nhiên đẹp hữu tình được nhân hóa, gắn bó hòa hợp với con người. Con người kháng chiến với khát vọng tự do, nên tầm nhìn cũng cao xa, mênh mông. Có lẽ vì thế nhà thơ đặc biệt chú ý đến bầu trời. Năm lần nhà thơ nói đến bầu trời, mỗi lần có một cách nói, cách cảm nhận đầy khám phá:

    "Trời thu thay áo mới",

    "Trời xanh đây là của chúng ta".

    "Trời đây chim và đất đầy hoa".

    "Dây thép gai đâm nát trời chiều".

    "Trán cháy rực nghĩ trời đât mới".

    Cái khác của mùa thu nay được diễn tả qua vần điệu náo nức, xôn xao,được đặc tả qua hình ảnh sống động, tươi mát : Gió thổi rừng tre phấp phới", được thể hiện ở ánh mắt, nụ cười: "Trong biêc nói cười thiết tha". "Biếc" ở trời xanh , "biếc" ở con mắt những chàng trai, co gái đang say mê ngắm trời thu thời máu lửa.

    Nguyên nhân của niềm vui ấy thật sâu xa, rộng lớn. Cách mạng thành công, nhân dân đã và đang đem tài năng và xương máu để giữu gìn và xây dựng đất nước. Đất nước là của nhân dân. Nguyễn ĐÌnh Thi như reo lên, hát lên niềm hạnh phúc tột cùng của những con người đang làm chủ đất nước:

    "Trời xanh đây là của chúng ta,

    Núi rừng đây là của chúng ta,

    Những cánh đồng thơm mát,

    Những ngả đường bát ngát,

    Những dòng sông đỏ nặng phù sa".

    Một lối nói khẳng định: "của chúng ta" vang lên đĩnh đạc, tự hào. Một dân tộc đã gan góc đứng lên đánh Pháp mới có tiếng nói hào hùng ấy. Tất cả những gì cao quý ,thiêng liêng trên đất nước thân yêu này là "của chúng ta" , của nhân dân chúng ta. Sau những đêm dài nô lệ, nhà nước độc lập, nhân dân ta mới có niềm vui tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào là của bao thế hệ con người VIệt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử : "Của ta ,trời đất, đêm ngày – Núi kia đồi nọ sông này của ta"( " Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" - Tố Hữu) . Với nghệ thuật diễn tả trùng điệp, với cách liệt kê, sử dụng điệp từ , điệp ngữ (của chúng ta,... đây là... những) tác giả đã tạo nên giọng thơ lôi cuốn, hấp dẫn mang âm điệu anh hùng ca.

    Dáng hình đất nước trong thơ Nguyễn ĐÌnh Thi hiện lên sông động qua những vần thơ tráng lệ. Nhà thơ như đang ngước mắt chỉ tay về " trời xanh" và " núi rừng", ... mà reo lên sung sướng. Có tình yêu nào lớn hơn tình yêu đất nước? Đất nước bao la, hùng vĩ với trời cao, biển rộng sông dài, ... trở nên thân thiết, thiêng liêng. Đất nước với những cánh đồng quê mênh mông thẳng cánh cò bay, " thơm mát" hương lúa bốn mùa. Đất nước với những nẻo đường tự do, những dặm đường kháng chiến " bát ngát" đến mọi chân trời. Đất nước với những dòng sông – sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã, Cửu Long Giang, ... "đỏ nặng phù sa" , bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, nuôi sống nhân dân ta tự bao đời nay. Các tính từ : "Xanh", "thơm mát", "bát ngát", "đỏ nặng", ... cực tả vẻ đẹp và sự bền vững đất nước, đồng thời cho thấy ngòi bút thơ tài hoa, điêu luyện của Nguyễn Đình Thi trong lựa chọn ngôn từ để hình tượng hóa vần thơ, tạo nên sắc điệu trữ tình đằm thắm.

    "Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi" (Tố Hữu). Cảm xúc dật dào ấy về đât nước cứ ngâm nga mãi trong lòng chúng ta khi tiếp cận và cảm thụ những vần thơ của tác giả "Người chiến sĩ" nói về dáng hình đất nước.

    So với lớp nhà thơ đương thời, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Cảm hứng lịch sử và truyền thống được kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng thời đại. Có khí quật cường của tổ tiên từ nghìn xưa đem đến cho nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh một sức mạnh vô biên mà không một thế lực thù địch bạo tàn nào có thể khuất phục được:

    "Nước chúng ta

    Nước những người chưa bao giờ khuất

    Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất,

    Những buổi ngày xưa vọng nói về".

    Ba chữ "nước chúng ta" là sự khẳng định ý chí tự cường, niềm tự tôn dân tộc. Đất nước và dân tộc với lưỡi cày , thanh gươm và chiếc gộc tre "chưa bao giờ chịu khuất". "Những buổi ngày xưa" mà nhà thơ nhắc đến là những năm tháng đau thương và vinh quang của giống nòi. Quên sao được ngày Bà Trưng, Bà Triệu, xuất quân, khi Lý Thường Kiệt viết " Nam quốc sơn hà" trên chiến tuyến sông Cầu – Như Nguyệt, khi Trần Quốc Tuấn bắt Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng Giang, khi Liễu Thăng bị quân ta chém đầu tại Chi Lăng, khi Tôn Sĩ Nghị quăng cả ấn tín, triều phục chạy tháo thân qua biên giới, ... Nhân dân mãi tự hào về "những buổi ngày xưa" ấy:

    ... " Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

    Nguyễn Du viết Kiều đất nước háo thành văn.

    Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc,

    Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng".

           Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng" – Chế Lan Viên

    Hai chữ "đêm đêm" nói lên tính liên tục dòng chảy lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ láy "rì râm" như một nốt nhạc trầm hùng van xa trong bài ca Tổ quốc, nó gợi tả cái mạch ngầm của giang sơn, gióng nòi, đó là truyền thống anh hùng bất khuất chốn xâm lăng. Biên độ câu thơ mở, khép tài tình, lúc rút ngắn lại 3 từ, lúc duỗi dài ra 8 từ, các câu lục ngôn, thất ngôn, đan chéo vào nhau, cài chặt vào nhau làm nên tính nhạc phong phú . Cảm xúc dào dạt , âm hưởng hào hùng, ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Song song với chuỗi hình ảnh về dáng hình đất nước là sự phát triển của chuỗi liên tưởng về quá khứ hào hùng, về sức mạnh Việt Nam.

    Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp và cốt cách thơ Nguyễn Đình Thi. Một hồn thơ tài hoa, bay bổng. Một tình yêu nước sâu nặng và thiết tha. Một đất nước đẹp tươi, hùng vĩ , giàu tiềm năng và tiềm lực,một dân tộc anh hùng được nhà thơ nói đến và ca ngợi. Chiều dài của lịch sử , tầm cao của dân tộc,thế đứng bất khuất của con người Việt Nam là những điều tốt đẹp nhất được thể hiện qua đoạn thơ này mà ta cảm nhận được một cách sâu sắc." Đất nước" , bài thơ làm rung động tam hồn chúng ta ... , như "lắng hồn núi sông ngàn năm...".

Nguồn: vietjack