Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Kiểm tra về truyện trung đại

Lý thuyết
Mục lục
* * * * *

Câu 1: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9) 

Lập bảng thống kê, ghi những kiến thức cần thiết vào từng cột theo mẫu dưới đây:

Hướng dẫn giải

Câu 2: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9) 

Phân tích vẻ đẹp và số phận đầy bi kịch của người phụ nữ qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và qua các đoạn trích Truyện Kiều.

Hướng dẫn giải

Bài viết tham khảo

Đề tài về người phụ nữ luôn được các nhà văn dành những trang văn ưu ái để viết về họ. Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến dù có hoàn cảnh sống khác nhau nhưng đều chịu chung những nỗi đau khổ, những số phận đầy bi kịch. Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là một người con gái như vậy.
Vũ Nương có tư dung tốt đẹp, Trương Sinh nhờ mẹ đem một trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Khi về làm dâu, nàng là người con thùy mị, nết na, hiếu thảo. Làm vợ Trương Sinh, nàng luôn gìn giữ khuôn phép để vợ chồng không bao giờ phải bất hoà. Nàng chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ đẻ, chồng đi lính xa nhà vẫn giữ gìn một tiết chung thuỷ chờ chồng và chăm sóc mẹ già con thơ.
Niềm hạnh phúc đoàn tụ gia đình có lẽ là niềm mong mỏi của tất cả những người phụ nữ có chồng ra chiến trận. Ngày chồng trở về, niềm vui ngắn chẳng tày gang, nàng đã phải chịu nỗi oan khuất vì bị chồng nghi ngờ. Vắng đi người cha trong gia đình, nàng đã an ủi đứa con nhỏ bằng chiếc bóng của mình trên tường vào mỗi tối. Nhưng chỉ vì lời con thơ mà Trương Sinh đã đổ tiếng xấu xa cho nàng, không cần một lời biện minh hay giải thích. Nàng chết trong nỗi oan khuất, tủi nhục của một người vợ thủy chung, son sắt chờ chồng. Để đến khi nàng chết đi, Trương Sinh mới nhận ra được sự thật, đó là giây phút hối hận muộn màng của người ở lại.
Khác với Vũ Nương, Chị em Thuý Kiều sống cuộc sống của con nhà nề nếp, trướng rủ màn che kín đáo mặc cho tường đông ong bướm đi về mặc ai. Hai chị em đều có nhan sắc tuyệt trần. Đặc bệt, Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh vốn sẵn tính trời, một tư chất thiên bẩm không mấy người có được.Nhưng số phận nàng thật nhiều bi kịch, hồng nhan đa truân, sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Gia đình yên ấm bỗng gặp phải tai họa, vì cứu cha và cứu em mà Kiều dã chấp nhận chia cắt mối tình với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Trong những lời cậy nhờ Thúy Vân ở lại chăm lo cha mẹ, ta thấy xót xa hơn cho thân phận nàng, một người con hiếu thảo và thủy chung son sắt trong tình yêu:

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Đó là những đau khổ mở màn cho cả một cuộc đời 15 năm lưu lạc sóng gió, trải qua biết bao tủi nhục, khổ đau. Kiều bi coi như một món hàng để mua bán mặc cả của Mã Giám Sinh:

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

Thân phận người phụ nữ bị coi rẻ, trở thành món đồ trao đổi với đồng tiền. Xót xa thay người con gái tài sắc.
Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều.
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:

" Thân em như hạt mưa sa 
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài " 

Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn . … Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng. 
Tác phẩm đã tố cáo xã hội phong kiến, chế độ nam quyền đã không cho người phụ nữ được quyền sống và quyền bảo vệ hạnh phúc cho mình. Với chế độ nam quyền : " Trọng nam khinh nữ " , người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buồng bởi những lễ giáo fong kiến khắc nghiệt như đạo " tam tòng ". Qua đó, tác giả cũng thể hiện niềm cảm thông, sự xót xa với những người phụ nữ. Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của mình qua trang viết về Vũ Nương và Kiều.

Câu 3: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9)

Bộ mặt xấu xa, thối nát của giai cấp thống trị, của xã hội phong kiến được thể hiện như thế nào qua các đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Vù trung tuỳ bút), Quang Trung đại phá quân Thanh (Hoàng Lê nhất thống chí), Mã Giám Sinh mua Kiều (Truyện Kiều)?

Hướng dẫn giải

Xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVIII bước vào sự khủng hoảng trầm trọng, bộc lộ tất cả những xấu xa, tồi tệ:

  • Đồng tiền lộng hành uy hiếp cuộc sống của người dân lương thiện (Mã Giám Sinh mua Kiều).
  • Những kẻ có tiền táng tận lương tâm. Đồng thời là tiếng nói thương cảm trước số phận và bi kịch của con người, tố cáo những thế lực xấu xa, khẳng định đề cao tài năng, phẩm chất và những khát vọng chân chín của con người. (Mã Giám Sinh).
  • Vua chúa quan lại ăn chơi, trụy lạc, thi nhau hà hiếp bóc lột dân lành (Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh).
  • Giai cấp thống trị bạc nhược, tham sống sợ chết, phản dân hại nước. Đồng thời, Tái hiện chân thực hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong công cuộc đại phá quân Thanh và sự thất bại thảm hại của bọn cướp nước, bán nước. (Hoàn Lê Nhất thống chí - Hồi thứ 14).

Câu 4: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9)

Phân tích hình tượng các nhân vật:

  • Nguyễn Huệ (đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh).
  • Lục Vân Tiên (đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguỵêt Nga).

Hướng dẫn giải

a. Nhân vật Nguyễn Huệ:

  • Quang Trung là một vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt.
    • Nguyễn Huệ là người anh hùng có tài cầm quân: tính toán ngày giờ đánh giặc và thắng giặc như thần, có thể lường trước mọi tình huống.
    • Nguyễn Huệ là người lãnh đạo có tầm nhìn xa rộng: trước khi rút quân khỏi Bắc Hà để Ngô Thời Nhiệm ở lại để lo việc về sau, dự tính sau khi đánh xong giặc Thanh cử người đi để xoa dịu mối quan hệ căng thẳng giữa hai nước, giữ hoà hiếu lâu dài.
    • Nguyễn Huệ là người anh hùng có sức thu phục lòng người: tha chết cho hai tướng Lân, Sở mặc dù họ thua trận, cách ăn nói vừa khéo léo, mềm mỏng lại vừa kiên quyết.
  • Là một vị tướng có tài thao lược hơn người:
    • Nắm bắt thời cơ, tổ chức một chiến dịch thần tốc.
    • Khẩn trương lên đường, tuyển quân trên đường đi, tổ chức hành quân thần tốc. Đêm 30 tháng chạp còn ở Tam Tiệp vậy mà trưa ngày mùng 5 tháng 1 quân Quang Trung đã ở giữa kinh thành Thăng Long. Đoạn đường dài hơn 100 cây số, phải vượt qua nhiều con sông, tấn công nhiều đồn địch. Đi bằng ấy đường đất, làm bằng ấy công việc, không phải Quang Trung thì không ai làm được.
    • Chọn tướng chỉ huy, chia quân, bố trí phối hợp giữa các cánh quân.
    • Tổ chức cách đánh của mũi quân xung yếu  do chính ông chỉ huy một cách kỳ tài. Ông cho dùng những tấm gỗ bện rơm bên ngoài, cứ mười người khiêng một bức “lưng dắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn trận chữ nhất là tiến, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc”.
  • Quang Trung là một vĩ lãnh tụ có khí phách lẫm liệt.
    • ông nắm toàm quyền chỉ huy, đốc thúc chiến dịch, đương đầu với hòn tên mũi đạn. Hình ảnh của Quang Trung hiện lên trong chiến trận ở đồi Ngọc Hồi vào sáng sơm ngày mung 5 mới lẫm liệt, hào hùng làm sao!
    • Chỉ huy một chiến dịch vĩ đại như vậy mà ôn vẫn ung dung tỉnh táo, lời nói sang sảng. Thể hiện khí phách của một người anh hùng, trị vì đất nước.

b. Hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên:

  • Một trang anh hùng hảo hán: có tài vũ dũng, có khí phách anh hùng, có tâm lòng vì nghĩa quên thân. Chỉ có một mình hai tay không đối chọi với bọn cướp hung hãn, đông đảo, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng, nhưng để cứu người “cho khỏi lao đao buổi này”, Vân Tiên đã “bẻ cây làm gậy” xông vào trận, không hề đắn đo suy nghĩ, không quản nguy hiểm đến tính mạng.
  • Sẵn sàng làm việc nghĩa, làm việc vô tư không màng danh lợi. Một Nho sinh trọng nghĩa khinh tài, đôn hậu bao dung, ân cần thăm hỏi người bị hại, Đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga nưng không nhận “báo đức thù công” của Kiều Nguyệt Nga, từ chối mọi đền đáp ơn huệ bởi lẽ “làm ơn há dễ trông người trả ơn”.

Câu 5: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9)

Nêu những nét chính về thời đại, gia đình và cuộc đời Nguyễn Du. Tóm tắt Truyện Kiều.

Hướng dẫn giải

Gia đình

  • Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
  • Gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học: cha là Nguyễn Nhiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng; anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản từng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Nhưng sớm mồ côi cha mẹ (mồ côi cha từ năm 9 tuổi, mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi). Hoàn cảnh gia đình cũng có tác động đến sáng tác của Nguyễn Du.

Thời đại

  • Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn tranh giành quyền lực
  • Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, xã hội rối ren, cuộc sống của nhân dân cơ cực, lầm tham.
  • Phong trào khởi nghĩa diễn ra khắp nơi, tiêu biểu nhất chính là khởi nghĩa Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo.
  • Nghĩa quân Tây Sơn đã đánh đổ tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh sang xâm lược.

Cuộc đời:

  • Nguyễn Du đã phải sống phiêu bạt nhiều năm ở đất Bắc (1786-1796) rồi sau đó về ở ẩn ở Hà Tĩnh (1796-1802).
  • Nguyễn Ánh lên ngôi mời ông ra làm quan, bất đắc dĩ ông phải nhận lời (1802). Ông từng được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, chuẩn bị đi lần thứ hai thì bị bệnh mất ở Huế.
  • Cuộc đời phiêu bạt: sống phiêu bạt nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc… Vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm nhiều tạo thành.

==> Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng vốn sống phong phú, am hiểu nền văn hóa dân tộc đặc biệt là niềm thương cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân, là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Tóm tắt truyện Kiều
Là con gái một gia đình trung lưu, Thuý Kiều sống bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Đó là người con gái có nhan sắc tuyệt trần, tài năng thiên bẩm. Trong ngày hội Đạp Thanh, gần nấm mồ Đạm Tiên - một hình ảnh báo hiệu định mệnh oan nghiệt sau này của nàng- Thuý Kiều gặp Kim Trọng. Mối tình đầu chớm nở. Nhân nhặt được chiếc thoa rơi của Thuý Kiều, Kim Trọng bày tỏ nỗi lòng với Kiều và hai bên đính ước.
Khi Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Kiều bị vu oan, cha và em bị bắt. Kiều phải bán mình chuộc cha.
Lần lượt bọn buôn người Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà dùng mọi thủ đoạn lừa gạt, dồn Thuý Kiều vào cuộc sống ô nhục. Nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, yêu thương và cứu vớt ra khỏi cuộc sống ở lầu xanh. Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bày mưu bắt Kiều về hành hạ và đày đoạ nàng. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Sợ bị liên luỵ, Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà lại lừa bán nàng cho một chủ lầu xanh. Ở đây, nàng gặp người anh hùng Từ Hải. Từ Hải chuộc nàng về làm vợ. Khi sự nghiệp thành, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, tên đại thần tráo trở, Từ Hải bị giết. Kiều bị nhục phải hầu rượu, đánh đàn trong tiệc mừng công của quân triều rồi lại bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng lại được Giác Duyên cứu. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.
Kim Trọng sau khi hộ tang chú, chàng trở lại tìm người yêu. Hay tin thảm khốc, Kim Trọng vô cùng đau đớn. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Không nguôi tình xưa, Kim Trọng lặn lội tìm kiếm và chàng đã gặp lại Kiều, cả gia đình đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên vui vẻ, để bảo vệ " danh tiết" và tỏ lòng kính trọng người yêu, Kiều đổi tình vợ chồng thành tình bạn.

Câu 6: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9)

 Qua các đoạn trích Chị em Thuý Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều, Thuý Kiều báo ân báo oán, hãy phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.

Hướng dẫn giải

Qua các đoạn trích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Ngợi ca vẻ đẹp ngoại hình,  phẩm chất tốt đẹp của con người:

  • Ngợi ca vẻ đẹp nhan sắc, tài năng (Kiều và Vân là những cô gái mười phân vẹn mười, mai cốt cách, tuyết tinh thần. Kiều còn là người có tài cầm, kì, thi họa).
  • Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn: hiếu thảo, thủy chung, có tấm lòng nhân hậu vị tha (tha chết cho Hoạn Thư).

Cảm thông cho những nỗi đau khổ, bất hạnh của con người:

  • Kiều phải bán mình chuộc cha, đau đớn quên đi lời ước thề đôi lứa với Kim Trọng.
  • Cảnh sống đau khổ, nổi trôi, lênh đênh của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên con người

  • Thế lực đồng tiền đã đẩy con người vào cảnh khôn cùng.
  • Những kẻ tán tận lương tâm, lọc lõi, xảo quyệt (Mã Giám Sinh, Tú Bà).
  • Đề cao khát vọng về công lí, về hạnh phúc của con người (cảnh Thuý Kiều báo ân báo oán, những kẻ có tội bị trừng trị đích đáng, những người có công được đền ơn xứng đáng).

Câu 7: (Trang 134 - SGK Ngữ văn 9) 

Qua các đoạn trích đã học, hãy phân tích những thành công nghệ thuật của Truyện Kiều (nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên, nghệ thuật miêu tả nhân vật).

Hướng dẫn giải

  • Nghệ thuật sử dụng ngôn từ hết sức điêu luyện, sử dụng tiếng nói của dân tộc (Là tác phẩm truyện thơ Nôm). Trong truyện Kiều, ngôn ngữ dân tộc đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực, giàu sức gợi cảm, chính xác, đẹp đẽ (ngôn ngữ tả vẻ đẹp chị em Thuý Kiều, ngôn ngữ tả cảnh ngày xuân), có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học.
  • Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên nổi lên hai nét chính:
    • Trực tiếp tả cảnh thiên nhiên bằng bút pháp ước lệ.
    • Tả cảnh để ngụ tình  - Nghệ thuật miêu tả nhân vật (Nguyễn Du có biệt tài miêu tả nhân vật).
  • Nghệ thuật miêu tả nhân vật:
    • Khắc họa nhân vật bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng (Chị em Thúy Kiều được so sánh với vẻ đẹp thiên nhiên).
    • Khắc họa tính cách nhân vật điển hình qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ. Chỉ bằng vài ba dòng thơ, tác giả đã tái hiện được chân dung nhân vật (Mã Giám Sinh – Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao)
    • Miêu tả đời sống nội tâm nhân vật thông qua ngôn ngữ đối thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (Kiều ở lầu Ngưng Bích).

 

 

 

 

 

 

 

 

Có thể bạn quan tâm


Có thể bạn quan tâm