Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Bài 7: Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước

Lý thuyết
Mục lục
* * * * *

Câu 1 (SGK trang 64)

Trình bày khái niệm thành phần kinh tế và căn cứ để xác định thành phần kinh tế ở nước ta.

Hướng dẫn giải

- Thành phần kinh tế là kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.

- Thành phần kinh tế liên quan đến mối quan hệ giữa ngừi với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Sở hữu tư liệu sản xuất được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn khác nhau và là căn cứ trực tiếp để xác định thành phần kinh tế.

Câu 2 (SGK trang 65)

Phân tích tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.

Hướng dẫn giải

- Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta:

+ Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn tồn tại một số thành phần kinh tế của xã hội trước đây, chưa thể cải biến ngay được, đòng thời trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa lại xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,… Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ.

+ Nước ta bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội với lực lượng sản xuất thấp kém và nhiều trình độ khác nhau, nên có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau. Hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là căn cứ trực tiếp để xác định các thành phần kinh tế.

Câu 3 (SGK trang 65)

Thành phần kinh tế nhà nước là gì? Phân tích vai trò của thành phần kinh tế nhà nước. Theo em cần phải làm gì để tăng cường vai trò của thành phần kinh tế nhà nước hiện nay ở nước ta?

Hướng dẫn giải

- Thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất.

- Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ các vị trí, các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hưỡng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

- Để tăng cường vai trò của thành phần kinh tế nhà nước hiện nay cần…

Câu 4 (SGK trang 65)

Thành phần kinh tế tập thể là gì? Vai trò và mối quan hệ giữa nó với thành phần kinh tế nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?

Hướng dẫn giải

- Thành phần kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, bao gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.

- Hợp tác xã là những đơn vị kinh tế được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lí dân chủ và có sự giúp đỡ của Nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển và cùng với kinh tế nhà nước “ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

- Môi quan hệ giữa thành phần kinh tế tập thể với thành phần kinh tế nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là:…

Câu 5 (SGK trang 65)

Trình bày khái niệm, cơ cấu và vai trò của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.

Hướng dẫn giải

+dntn là doanh nghiệp do một cá nhân là chủ và tự chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
+đặc điểm:
-do một cá nhân làm chủ,mang tính chất đối nhân,chủ dntn phải chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình.
-phải chịu trách nhiệm vô hạn với những nợ nấn của doanh nghiệp,cả tài sản dân sự và tài sản đưa vào kinh doanh.
-vốn đầu tư do chủ doanh nghiệp tự khai và có trách nhiệm khai báo chính xác trung thực tổng số vốn đầu tư,trong đó nêu rõ số vốn bằng tiền vnđ,ngoại tệ tự do chuyển đổi,vàng và các tài sản khác(đ100).
-toàn bộ vốn tài sản,kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vàohoạt động của dntn.
chủ dntn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh(đ100,k3).
+cơ cấu:
-chủ dntn có quyền quyết định đối với tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,sử dụng lợi nguận sau khi nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác.
-chủ dntn có thể thuê người trực tiếp quản ly,điều hành,nhưng dù ở trường hợp nào chủ dntn cũng phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp(đ101,k1).
-chủ dntn là đại diện hợp pháp theo pháp luật của dntn(đ103,k3),được đặt tên theo nghành,nghề kinh doanh hoặc theo tên riêng.
-chủ doanh nghiệp có quyền cho thuê(đ102) toàn bộ doanh nghiệp nhưng phải báo cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh,cơ quan thuế.
-có quyền bán doanh nghiệp(đ103).sau khi bán,chủ dntn vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ nẩn và các nghĩa vụ tài sản khác,trừ trường hợp người mua ,người bán và chủ nợ có thỏa thuận(đ103,k2).
-người mua dntn phải đăng ký kinh doanh lại(đ103,k4).
-chủ doanh nghiệp có quyền ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh.(đ104).
-chủ doanh nghiệp là nguyên đơn,bị đơn trước trọng tài kinh tế hoặc tòa án trong tranh chấp các vụ việc liên quan đến doanh nghiệp.
-dntn sẽ giải thể và phá sản trong các trường hợp sau:
+theo quyết địng của chủ doanh nghiệp
+bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
+thủ tục giải thể dntn phải đảm bảo thanh lý hợp đồng,thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp không quá 6 tháng kể từ ngày tuyên bố giải thể(đ112).
+nếu bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì dntn phải ngưng hoạt động trong thời hạn 6 tháng.
+việc phá sản dntn được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Vai trò Đối với mọi quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quá trình trong phát triển kinh tế của đất nước. Đối với nước ta, mặc dù trong quá trình phát triển trải qua nhiều thăng trầm song bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế tư nhân đã khẳng định là một bộ hận cấu thành, có vị trí quá trình lâu dài của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình đổi mới mạnh mẽ để vươn tới nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong sự đổi mới đó, kinh tế Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo, nhưng đóng góp cho quá trình phát triển đó có sự tham gia tích cực của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân với các loại hình đa dạng, hoạt động linh hoạt góp phần giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội, trong đó nổi cộm là giải quyết việc làm cho người lao động mà kinh tế Nhà nước chỉ giải quyết được hạn hẹp. Kinh tế tư nhân làm đa dạng hóa nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn rất lớn cả về phía người tiêu dùng lẫn chủ sở hữu, tính đa dạng đó là ưu thế rất lớn để đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất hàng hóa lớn như nước ta. Kinh tế tư nhân vốn phạm vi hoạt động rộng lớn trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.... cần có sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Nhà nước. Nhận định vai trò của kinh tế tư nhân Nhà nước đã đổi mới cơ chế chính sách để phát triển thành phàn kinh tế này. Trong những năm gần đây, nhờ quan điểm đổi mới tích cực với cơ chế tác động rõ ràng, dứt khoát đã thúc đẩy kinh tế tư nhân ngày càng phát triển.

Với những hiểu biết còn nhiều hạn chế, trong phạm vi đề tài cho phép em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ dẫn của thầy cô giáo về những sai sót trong quá trình làm bài.

Câu 6 (SGK trang 65)

Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là gì? Cho ví dụ. Tại sao nói thành phần kinh tế tư bản nhà nước giữ vai trò là “cầu nối” để đưa sản xuất nhỏ lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?

Hướng dẫn giải

- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản nước ngoài, thông qua các hình thức hợp tác như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh,…

- Ví dụ:

Nói thành phần kinh tế tư bản nhà nước giữ vai trò là “cầu nối” để đưa sản xuất nhỏ lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vì đây là thành phần kinh tế có tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lí, nên có những đóng góp không nhỏ cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, phát triển kinh tế tư bản nhà nước còn là giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh có hệu quả của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Do vậy, phát triển kinh tế tư bản nhà nước là đòi hỏi khách quan, giữ vai trò là hình thức kinh tế trung gian, hình thức kinh tế quá độ, là cầu nối đưa sản xuất nhỏ lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.

Câu 7 (SGK trang 65)

Thành phần kinh tế nhà nước khác với thành phần kinh tế tư bản nhà nước về:

a. Hình thức sở hữu.

b. Quan hệ quản lí.

c. Quan hệ phân phối.

d. Tất cả các phương án trên.

Hãy chọn phương án mà em cho là đúng. Vì sao?

Hướng dẫn giải

Quan hệ quản lí: Ông chủ & người làm, Ông chủ thật sự biết cất nhắc và chọn lựa, phát huy đúng năng lực của người làm. Khác với: Người làm là "chủ", còn lãnh đạo là "đày tớ" của Người làm)

Câu 8 (SGK trang 65)

Theo em, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, vấn đề tìm kiếm việc làm có gì khác với trước đây khi nền kinh tế nước ta còn tình trạng bao cấp?

Hướng dẫn giải

Nền kinh tế nhiều thành phần tạo công ăn việc làm cho người dân, giúp cơ hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, công việc phong phú hơn đa dạng hơn, mức lương cũng sẽ khác so với nền kinh tế trước đây và chúng ta có thể tham gia vào bất kì thành phần kinh tế nào để có được thu nhập chính đáng cho bản thân và gia đình mình.

Câu 9 (SGK trang 65)

Phân tích vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay.

Hướng dẫn giải

Kinh tế thị trường là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, nó là thành quả của văn minh nhân loại và được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, kinh tế thị trường nếu để tự do phát triển nó cũng sẽ sinh ra rất nhiều những hạn chế như : nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần hạn chế các nguồn lực, hàng hóa công cộng không được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh thái bị phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn định của đất nước. Khắc phục những khiếm khuyết của thị trường nhất thiết phải có sự can thiệp của nhà nước. Ngày nay, không một quốc gia nào sử dụng cơ chế kinh tế thị trường mà không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước bất luận đó là nhà nước tư bản chủ nghĩa hay nhà nước XHCN. Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu tất yếu và nâng cao năng lực quản lý nhà nước là điều kiện vô cùng quan trọng để đạt được những mục tiêu mong muốn trên cơ sở phát huy tối đa những mặt tích cực của thị trường và hạn chế tối thiểu những tiêu cực sinh ra từ cơ chế thị trường Mặt khác, sự cần thiết phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế còn xuất phát từ bản thân nhà nước. Mọi Nhà nước sinh ra đều nhằm nắm giữ quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế để điều tiết mọi quan hệ kinh tế - xã hội để phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Để thực thi quyền lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân để tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng theo định hướng mục tiêu của giai cấp cầm quyền, đối với nhà nước ta mục tiêu đó chính là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay, lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã hội hóa sản xuất cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra, cho nên sự quản lý của Nhà nước về kinh tế càng cần thiết hơn.
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên với vai trò chủ thể quản lý của nền kinh tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của quốc gia, lợi ích của nhân dân đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân làm chủ sở hữu mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước xây dựng mô hình kinh tế thị trường và vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường của ta còn sơ khai nên vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng thể hiện qua các mặt như : Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra đời, đồng thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát triển; Nhà nước phải hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường và khuyết điểm yếu kém của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang quản lý nền kinh tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung với 4 nội dung cơ bản. Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an toàn, minh bạch, thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai là nhà nước thực hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua chiến lược, kế hoạch, các chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các nguồn lực, khai thông quan hệ kinh tế… Ba là nhà nước thực hiện chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế. Bốn chức năng này đều có vai trò quan trọng như nhau và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở luật pháp, các văn bản dưới luật. Hệ thống pháp luật là chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, duy trì trật tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong kinh doanh theo các hướng xác định. Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng, đồng bộ, thực tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà nước thông qua việc hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế và định hướng cho sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể hiện quan điểm phát triển nhanh nhưng bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh, nắm bắt tốt những cơ hội và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải pháp ứng phó phù hợp.
Về công cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công cụ chủ yếu của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, Nhà nước cần phải nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường bao gồm :
Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô trên các lĩnh vực như : điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát, định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, điều chỉnh lĩnh vực thu nhập.
Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, thuế không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực của Nhà nước mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô. Thuế là công cụ điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở Nhà nước sử dụng chính sách thuế có phân biệt giữa các ngành, nghề, các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau, chính sách này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hoặc tạo sự tác động ngược lại. Thuế là công cụ để điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư khác nhau, điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các vùng, các miền để đảm bảo thực hiện chính sách xã hội, sự phát triển kinh tế - xã hội tương đối đồng đều giữa các vùng, các miền đất nước. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách kinh tế mở cửa.
Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những nội dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp này nhằm các mục tiêu : điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mục tiêu trên được thực hiện trên cơ sở Nhà nước xác định chính sách giá cả hợp lý trong từng thời kỳ, chính sách này bao gồm 3 nội dung cơ bản : định giá trực tiếp, quản lý gián tiếp, khống chế tổng mức vật giá. Phạm vi hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn trong một số ít sản phẩm cơ bản có tính chiến lược hoặc có tính phục vụ xã hội như: than, dầu mỏ, điện, hàng không, bưu điện… Tuy nhiên việc Nhà nước định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược quy luật cung cầu của thị trường trong thời gian dài. Hình thức thứ hai là Nhà nước chỉ đạo mức giá (quản lý gián tiếp) thông qua việc xác định mức giá cao nhất, giá bảo hộ thấp nhất, nhịp độ thả nổi, chênh lệch kinh doanh…trong giá cả hàng hóa. Hình thức quản lý này đòi hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá cả chỉ đạo để làm cho nó tiếp cận với giá cả thị trường. Hình thức nhà nước khống chế từng mức giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và biện pháp khống chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện pháp hành chính, biện pháp tài chính, biện pháp tiền tệ, biện pháp khống chế lương và hối suất…
Bốn là hệ thống ngân hàng : ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường bao gồm : Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Công cụ sử dụng trong hoạt động ngân hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiết khấu, hệ thống thị trường tài chính- tiền tệ… Hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, trong từng điều kiện cụ thể về quy mô, hiệu quả .. sẽ giữ được vai trò trung tâm tín dụng, trung tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn thấp, sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn nghèo nàn; công tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo kém, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa thật tốt, chậm được đổi mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ quản lý tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp... Chính những hạn chế này là rào cản lớn cho sự phát triển kinh tế
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu như sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước . Bên cạnh đó, phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế ... nhằm đảm bảo phù hợp và định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động.
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, giảm bớt các đầu mối, các khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường : phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, tuyễn dụng, bố trí, đề bạc, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy tính chủ động, sáng tạo, toàn tâm toàn ý với sự phát triển của đất nước. Song song đó phải thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu, phiền hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán. Về chính sách thuế, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Về chính sách tài chính - tiền tệ, phải bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước, thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi ngân sách địa phương. Về hoạt động ngân hàng, phải xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội, kiện toàn các ngân hàng thương mại Nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, . Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là nhiệm vụ quan trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục, nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Tóm lại, nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô, nâng cao năng lực hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa có tâm, vừa có tầm để thực hiện tốt các chức năng quản lý của nhà nước, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế ở nước ta không đi chệch hướng XHCN.

Câu 10 (SGK trang 65)

Tại sao phải tăng cường vai trò và nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của nhà nước? Theo em, muốn tăng cường vai trò và nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước, cần có những giải pháp nào? Tại sao?

Hướng dẫn giải

Sự cần thiết, khách quan phải có vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước :
- Do yêu cầu phải thực hiện vai trò của chủ sở hữu Nhà nước về TLSX (vốn) đối với các doanh nghiệp Nhà nước.

- Nền kinh tế hàng hoá (các tác động tiêu cực) cần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực; tạo sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.

- Đảm bảo đúng mục tiêu XHCN trong xây dựng đất nước: giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh cần có sự quản lý của Nhà nước.

* Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý nền ktế của Nhà nước:

- Tiếp tục đổi mới công cụ để tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng; giữ vững định hướng XHCN;

- Tăng cường lực lượng vật chất của Nhà nước để điều tiết thị trường: dự trữ quốc gia, trang bị công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ quản lý nền kinh tế và các doanh nghiệp Nhà nước;

- Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước.Trên cơ sở phát triển mạnh mẽ LLSX hiện đại gắn với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt: Sở hữu, Quản lý, Phân phối.

- Nhà nước quản lí kinh tế bằng pháp luật, chính sách và phương pháp quản lý, chiến lược

- Phân phối theo lao động

Câu 11 (SGK trang 65)

Em có dự định sẽ hoạt động trong thành phần kinh tế nào? Tại sao lại lựa chọn thành phần kinh tế đó?

Hướng dẫn giải

+ Thành phần kinh tế nhà nước: Bình yên, ổn định, được hỗ trợ

+ Thành phần kinh tế tư bản: Cạnh tranh, lợi nhuận tính theo năng lực, năng động

+ ….

Có thể bạn quan tâm