Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Giáo án Ngữ văn 12 tiết 25: Đất nước

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Nguyễn Thị Thu Hiếu 9 tháng 11 2020 lúc 11:15:46 | Được cập nhật: hôm kia lúc 22:02:20 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 2942 | Lượt Download: 114 | File size: 0.034367 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

GIÁO ÁN GIẢNG ĐẤT NƯỚC
Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi.
Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hòang Cầm. Đất nước hóa thân cho
một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê
hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, NKĐ đã tìm đc một cách nói riêng để
chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất
nước của nhân dân.
Nỗi xúc động chân thành khi đắm mình vào huyền thoại hoài thai đất nước. Niềm dịu ngọt trong
tim khi nghĩ về cha, mẹ, người thương. Xúc cảm sử thi hào hùng chảy hồn cùng nghìn năm bi
tráng dựng nước giữ làng. Trường ca Đất nước của NKĐ đẹp như một thiên giao hưởng mà ngọt
ngào tựa khúc hát ru bên nôi. Những câu thơ đẹp như vậy thường nuôi dưỡng hồn ta hơn ngàn
lời huấn dụ.

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Nguyễn Khoa điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền tỉnh
Thừa Thiên Huế, quê gốc ở thành phố Huế.
- Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức Cách mạng, cha là Nguyễn Khoa Văn (tức Hải
Triều) nhà lý luận phê bình văn học theo quan điểm Mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945.
- Sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm
vào miền Nam tham gia cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ. Ông là một trong những nhà thơ tiêu
biểu của thế hệ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.
- Con đường và sự nghiệp sáng tác:
+ Sau năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị ở thành
phố Huế, rồi làm Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam (khóa V), Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin.
+ Từ năm 2001 đến năm 2006, ông là Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng, Trưởng ban
tư tưởng văn hóa trung ương. Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm
2000.
+ Tác phẩm chính: “Đất ngoại ô” (tập thơ - 1972), “Mặt đường khát vọng” (trường ca – 1974),
“Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), “Cõi lặng” (2007).
+ Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, dồn nén thể hiện tâm tư của
người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
1

2. Tác phẩm và đoạn trích
Sau khi tốt nghiệp Khoa Văn trường ĐHSPHN, NKĐ trở về quê hương, hòa mình vào cuộc
khánh chiến chống Mĩ ở chiến trường Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, trưc
tiếp nhìn thấy tội ác kẻ thù và cuộc chiến đấu gian khổ của đồng chí, đồng bào mình đã khơi dậy
mãnh liệt cảm hứng sáng tác của NKĐ. Sau nhiều tháng trời hành quân ròng rã, NKĐ trở về
Huế, đến Tỉnh ủy Thừa Thiên và được phân công công tác vận động thanh niên thành ủy Huế.
Thời gian 2 năm gắn bó với phong trào học sinh, sinh viên Huế có ý nghĩa vô cùng quan trọng
với sự nghiệp sáng tác của ông. Từ những đêm không ngủ, những ngày xuống đường, NKĐ đã
để cảm hứng kết tinh thành trường ca Mặt đường khát vọng gồm 9 chương. Đất Nước là chương
thành công nhất, thể hiện trọn vẹn tài năng, phong cách thơ ca NKĐ. Cùng Đất nước của NĐT,
đây là hai áng thơ đẹp nhất viết về đất nước của VHVNHĐ.
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 10.
1971, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị
tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đứng về
nhân dân, đất nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh
hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
- Đoạn trích SGK thuộc phần đầu chương V, có tên “Đất nước” của trường ca “Mặt đường khát
vọng”.

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971,
in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm
chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đứng về nhân
dân, đất nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà
nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
- Đoạn trích SGK thuộc phần đầu chương V, có tên “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát
vọng”.
- Bố cục: 3 phần
+ 9 câu đầu: Đất Nước có từ bao giờ (suy tư về cội nguồn đất nước, cội nguồn dân tộc)
+ 20 câu tiếp theo: Đất Nước là gì?
+ 47 câu còn lại: khẳng định Đất Nước của Nhân Dân
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Đất Nước có từ bao giờ? (9 câu đầu)

2

a. Sự ra đời và lớn lên của Đất Nước (4 câu đầu)
- Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho chương V một hình thức trữ tình độc đáo, mượn hình thức trò
chuyện ân tình của lứa đôi vốn để trao đổi tình cảm cá nhân , để gửi gắm những tình cảm chung,
lớn lao, thiêng liêng, đó là tình yêu đất nước. Nói cách khác, người viết đã dùng cái vỏ trữ tình
riêng tư để chuyển tải những tình cảm của thời đại. Bởi thế, ngay từ những dòng mở đầu, người
đọc đã bị cuốn vào một điệu tha thiết, đằm thắm, cùng một giọng thơ nhỏ nhẹ, tâm tình.
- “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”:
+ Nhân vật trữ tình xưng “ta” mở ra một giọng thơ trò chuyện đằm thắm, thân tình giữa người
con trai với người con gái.
+ Đại từ “ta” vừa là lời tự xưng của nhà thơ, vừa có ý nghĩa đại diện cho một thế hệ. Đất Nước
có từ khi mỗi người, mỗi thế hệ lớn lên. Đó là một đất nước có từ rất lâu đời.
+ Hai chữ “Đất Nước” được viết hoa giống như một mĩ từ, thể hiện tình yêu, niềm trân trọng của
nhà thơ với đất nước.
- “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”: câu thơ khẳng định đất
nước được lưu truyền qua những câu chuyện ngày xưa mẹ thường hay kể. Cái “ngày xửa ngày
xưa” gợi đến những câu chuyện cổ tích – nơi lưu giữ tâm hồn và văn hóa người Việt.
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” không xác định về thời gian mà đó là thời gian mơ hồ, đậm chất
thần thoại cổ tích, có tác dụng khắc họa hình ảnh đất nước qua thời gian đằng đẵng.
+ Đất Nước hiện hữu cùng hình ảnh người mẹ - đấng sinh thành, thể hiện tình cảm tự hào, thành
kính mà gần gũi, thương yêu, gắn bó với mỗi người.
- “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn”: câu thơ khéo léo gợi lại một trong những
phong tục nổi tiếng của đất nước – tục ăn trầu và thờ cúng bằng trầu cau. Có thể nói, thời điểm
bắt đầu của đất nước là khi chúng ta có phong tục, khi con người biết yêu thương, gắn bó với
nhau.
+ Câu thơ gợi về sự tích Trầu Cau và tục ăn trầu, nhuộm răng cùng truyền thống nghĩa tình sâu
đậm của dân tộc.
+ Câu thơ khẳng định đất nước bắt đầu với văn hóa, phong tục tập quán.
- “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”:
+ Khi nói “dân mình”, nhà thơ đã tự coi mình là một thành viên trong cộng đồng nhân dân đông
đảo, đồng thời thể hiện tình cảm thân thiết, trìu mến với nhân dân.
+ Đất Nước lớn lên trong quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân, trưởng thành bền bỉ
trong những cuộc kháng chiến chống xâm lăng.
3

+ Câu thơ gợi nhắc đến truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, ta lại thấy quá khứ hào hùng
“Lịch sử thành văn trên mình ngựa - Con trẻ mà mang áo giáp đồng” (Trần Mạnh Hảo) thể hiện
niềm kiêu hãnh về một đất nước anh hùng bất khuất.
- Hình thức trữ tình diễn tả một khám phá độc đáo, sâu sắc về đất nước. Đó là đất nước được
hình thành trong chiều dài lịch sử. Cả đoạn thơ, người đọc thấy xuất hiện một chuỗi ngôn từ
được sắp xếp theo trình tự đầy dụng ý nhưng vẫn rất tự nhiên. Chuỗi ngôn từ đó được sắp xếp
theo sự vận động của thời gian, nó cho thấy đất nước được hình thành từ rất xa xưa. Đất nước
lớn lên cùng dòng chảy lịch sử, gắn liền với dòng chảy thời gian của vũ trụ. Cách cấu trúc ngôn
từ của hai dòng thơ “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn – Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc” được viết song song đã khái quát được chính xác và tinh tế
lịch sử phát triển của đất nước gắn với hai đặc thù cơ bản: đất nước khởi nguồn từ những nền
tảng văn hóa (miếng trầu), đất nước lớn lên, trưởng thành qua những cuộc chiến đấu chống ngoại
xâm (đánh giặc). Đặt hai câu thơ trong hệ thống sáng tác cùng đề tài, ta thấy có sự gặp gỡ khi
viết về đất nước giữa Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo và Huy Cận. Bởi các nhà thơ đều
nhìn nhận lịch sử đất nước, lịch sử dân tộc trong hai đặc điểm cơ bản như thế. Chỉ có điều, mỗi
nhà thơ, bằng những sáng tạo của mình lại có cách diễn đạt riêng. Huy Cận khái quát lịch sử dân
tộc bằng những hình ảnh thơ giàu chất suy tưởng:
Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Đi trên mảnh đất này – Huy Cận)
Còn Trần Mạnh Hảo lại thể hiện nhận thức riêng về lịch sử đất nước bằng một biểu tượng giàu
chất thơ “Lịch sử thành văn trên mình ngựa”. Nguyễn Khoa Điềm chọn lời trò chuyện tâm tình
đời thường nhưng vẫn sâu sắc.
b. Sự hiện hữu của Đất Nước ở quanh ta và trong ta (5 câu tiếp)
Đất Nước hiện hữu trong những thuần phong mĩ tục của người Việt Nam:
- “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: Câu thơ nhắc đến phong tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt
Nam.
- “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: Đất Nước hiện hữu trong lối sống nghĩa
tình, thủy chung của dân tộc, đó là tình cảm mẹ cha gắn bó. Câu thơ mang bóng dáng của một
bài ca dao:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
4

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Chất liệu của câu ca dao đi vào lời thơ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tạo theo lối tư duy thơ
hiện đại mang âm hưởng khẳng định. Càng trong đắng cay, gian khổ, tình cảm của cha mẹ càng
gắn bó nồng nàn, thủy chung. Đó là gốc rễ cội nguồn đạo lí trong đời sống tình cảm của dân tộc.
- “Cái kèo cái cột thành tên - Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”: đất nước
hình thành từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, từ việc xây dựng mái nhà che mưa chắn nắng.
Đất nước hiện hữu qua từng hạt gạo, củ khoai, cái kèo, cái cột. - Việt Nam là nước có nền văn
minh lúa nước nên lời thơ đã nhắc đến hạt gạo với bao thương cảm “hạt gạo phải một nắng hai
sương xay, giã, dần, sàng”. Mượn cách nói dân gian, nhà thơ đã diễn đạt chính xác một đặc
trưng trong cuộc sống lao động của người dân Việt nghèo khổ: cần cù, chịu thương chịu khó,
chắt chiu từng thành quả lao động của chính mình.
- “Đất Nước có từ ngày đó”: từ “ngày đó” là đại từ thay thế tất cả khoảng thời gian ở trên,
Nguyễn Khoa Điềm cố ý xóa mờ thời gian cụ thể để khẳng định đất nước có từ rất lâu đời, xa
xưa. Đất Nước có từ xa xưa và tồn tại đến muôn đời.
+ Hai chữ “ngày đó” vừa gợi thời gian đã qua trong quá khứ, vừa là phép thế đại từ mà ở đó nó
thay thế cho hầu hết bốn dòng thơ trước đó.
+ Gợi lại những phong tục tập quán lâu đời của người Việt. Lời thơ làm sống lại đời sống tình
cảm sâu sắc của cha, mẹ cũng như của bao đôi lứa. Văn minh lúa nước, để làm ra hạt gạo nhỏ bé
phải bao nhiêu mồ hôi nước mắt.
=> NKĐ cố ý xóa mờ thời gian cụ thể để khẳng định đất nước có từ rất lâu đời, xa xưa.
=> Đất Nước hiện hữu ở những sự vật xung quanh, gần gũi với chúng ta. Đất Nước còn được
hình thành từ một nền văn hóa xứ sở với những phong tục tập quán lâu đời, những truyền thống
đó trở thành một phần cuộc sống, một phần tình cảm tâm hồn của con người nên nó tồn tại ngay
trong chính bản thân mỗi người. Vì thê, Đất Nước không phải là cái gì mơ hồ, cao xa mà tồn tại
ngay xung quanh chúng ta, ngay bên trong bản thân mỗi con người.
=> Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về đất nước, đất nước không xa lạ mà
thật gần gũi, bình dị. Đất nước có trong thói quen búi tóc của mẹ, trong tình nghĩa sâu nặng vợ
chồng, trong ngôi nhà ấm áp, trong hạt gạo trắng ngần, trong sự hình thành ngôn ngữ dân tộc.
Lời thơ nhắc ta về truyền thuyết Thánh Gióng. Hình ảnh cậu bé làng Gióng vươn vai thành tráng
sĩ đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi là hình ảnh biểu tượng cho sức mạnh quật khởi của đất nước
trong suốt hơn 4000 năm lịch sử.
+ 9 câu thơ là những phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Những câu thơ có
sức liên tưởng mạnh mẽ dẫn người đọc từ hiện tại trở về quá khứ, từ quá khứ đến hiện đại. Tất cả
nhằm toát lên ý nghĩa đất nước là của nhân dân.

5

2. Đất Nước là gì?
a. Đất Nước là sự kết hợp giữa hai thực thể đất và nước (Đất là nơi anh đến trường… “con cá
ngư ông móng nước biển khơi”)
- Đoạn thơ có cấu trúc đặc biệt, cách tổ chức dòng thơ độc đáo, đầy dụng ý “đất – nước – đất
nước”. Cách cấu trúc này gắn với tư duy nghệ thuật mang màu sắc triết học Á Đông. Người xưa
quan niệm sự hài hòa hai yếu tố âm dương là nền tảng tạo nên sự sống. Trong quan hệ đó, người
ta hiểu nước là âm, đất là dương, hợp thành đất nước là hợp thành chỉnh thể.
- Nguyễn Khoa Điềm tách Đất và Nước làm hai thực thể kết hợp với kiểu câu định nghĩa “Đất
là…”, “Nước là…”, “Đất Nước là…”, từ đó nhà thơ có những cảm nhận vừa cụ thể vừa khái
quát về đất nước.
- “Đất là nơi anh đến trường”: câu thơ khẳng định đất nước là nơi nuôi dưỡng con người lớn
khôn cả về thể xác và tâm hồn, nơi lưu giữ những kỉ niệm từ thuở ấu thơ, từ thuở cắp sách đến
trường.
- “Nước là nơi em tắm”: gợi hình ảnh cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi con người đều
gắn bó chặt chẽ với quê hương xứ sở.
-> Đất hay nước gắn bó với anh hay em đều chứa đựng những kí ức tuổi thơ trong trẻo. Nhưng
khi hợp thành đất nước, nó trở thành một chỉnh thể gắn bó bền chặt. Theo đó, người ta thấy có sự
chuyển hóa rất tự nhiên, kì diệu giữa anh và em thành ta. Trong ta đã có sự hiện diện của mỗi cá
thể. Sợi dây gắn kết giữa anh và em thành ta chính là tình cảm riêng tư lứa đôi trong những buổi
hẹn hò gặp gỡ. Với tư duy thơ hiện đại được chắp cánh cảm xúc bằng chất liệu dân gian đã mở
ra một không gian bay bổng, mộng mơ của đất nước kết thành những câu thơ thật đẹp “Đất
Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
- Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm”: đất nước gắn với những kỉ niệm đáng nhớ
nhất trong cuộc đời mỗi con người. Thời thơ ấu, niềm vui nỗi buồn đều gắn với mái trường.
Nước song hành với những kỉ niệm tuổi thơ em cũng đáng nhớ như thế. Đất hay nước gắn bó với
anh hay em đều chứa đựng những kí ức tuổi thơ trong trẻo. Nhưng khi hợp thành đất nước, nó
trở thành một chỉnh thể gắn bó bền chặt. Theo đó, người ta thấy có sự chuyển hóa rất tự nhiên, kì
diệu giữa anh và em thành ta. Trong ta đã có sự hiện diện của mỗi cá thể. Sợi dây gắn kết giữa
anh và em thành ta chính là tình cảm riêng tư lứa đôi trong những buổi hẹn hò gặp gỡ.
=> Nguyễn Khoa Điềm đã có cách lí giải biện chứng về mối quan hệ giữa những tình cảm riêng
tư, cá nhân và những tình cảm lớn lao, thiêng liêng. Nói cách khác, đó là mối quan hệ giữa tình
yêu cá nhân và đất nước. Với Nguyễn Khoa Điềm, tình yêu là hạt nhân, nền tảng, là cội nguồn
tạo nên sự sống, làm nên sự trường tồn của đất nước, vun đắp tình yêu đất nước trong mỗi con
người. Như thế, nhà thơ đã khắc phục được một quan niệm, một cách nhìn cực đoan về tình yêu
lứa đôi của con người. Tình yêu lứa đôi không làm cho tình yêu nước bị phai nhòa, mà thậm chí,

6

nó vun đắp tình yêu đất nước cao cả. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” nhà thơ Chế Lan Viên
cũng có một cảm nhận như thế:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.
Nguyễn Đình Thi cũng viết “Anh yêu em như anh yêu đất nước” chỉ có điều, với Nguyễn Đình
Thi, tình yêu riêng tư của lứa đôi hài hòa với tình cảm chung lớn lao. Còn với Nguyễn Khoa
Điềm và Chế Lan Viên, tình yêu lứa đôi là nền tảng hình thành tình yêu đất nước.
- Lời thơ phảng phất phong vị của những câu ca dao trữ tình đằm thắm. Chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm của người con gái trong câu thơ Nguyễn Khoa Điềm khiến ta nhớ đến chiếc khăn nhớ
thương trong ca dao “khăn thương nhớ ai – khăn rơi xuống đất”. Chỉ có điều, trong chiếc khăn
ấy, ta thấy sự hiện diện lớn lao của đất nước. Chiếc khăn hay miếng trầu đều rất bình dị, gần gũi,
bé nhỏ mà chứa đựng cả đất nước lớn lao, thiêng liêng.
- Mặt khác, tách đất – nước thành hai thực thể, nhà thơ còn thể hiện nhận thức mang ý nghĩa khái
quát về vóc dáng của núi sông với vẻ đẹp của đất nước vừa hiện thực vừa huyền thoại. Qua đó
thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về một đất nước có rừng vàng biển bạc. “Đất là nơi con chim
phượng hoàng bay về hòn núi bạc – Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
Nếu tách riêng ra, đất nước là nơi sinh sống của chim phượng hoàng, cá ngư ông. Nhưng hợp lại,
đất nước là nơi cư trú của nhân dân mình. Theo thời gian đằng đẵng, không gian đất nước ngày
càng mở rộng mênh mông, trở thành mảnh đất quy tụ người Việt cổ. Từ anh, em đến dân mình,
cách dùng từ này khiến người đọc hình dung cụ thể về sự sinh sôi phát triển của dân tộc, gắn liền
với sự sinh sôi ấy là truyền thống đoàn kết. Lời thơ giản dị mà khái quát được một truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nhờ đó mà các thành viên người Việt từ xa xưa mới có thể liên kết
gắn bó tạo nên sức mạnh tinh thần vượt qua thử thách của thiên nhiên, của các cuộc xâm lăng
kéo dài không dứt.
=> Như vậy, sự vỡ tách và ghép nhập hai âm tiết đất – nước gợi chiều sâu tư tưởng: đất nước là
sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và
huyền thoại. Đất nước là cuộc sống của mỗi người, nằm trong mỗi người.
b. Đất Nước có nguồn cội thiêng liêng, tôn kính được hình thành qua thời gian và không gian
bền bỉ (Thời gian đằng đẵng … Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ)
- Hai chữ “đằng đẵng” thể hiện thời gian bền bỉ mang sức sống của bề dày văn hiến lâu đời. Hai
chữ “mênh mông” gợi không gian đất nước rộng lớn, thể hiện niềm tự hào về cương vực lãnh
thổ.
- Thời gian của đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn chật ních những truyền
thuyết “Chim về - Rồng ở”, “Lạc Long Quân – Âu Cơ”. Đây là những truyền thuyết về nguồn
cội nhằm cắt nghĩa lịch sử hình thành của đất nước. Loại thời gian này làm cho vẻ đẹp của đất
nước thấm đẫm tính huyền thoại, lấp lánh niềm tự hào dân tộc, đánh thức tình cảm cội nguồn sâu
sắc cất giấu trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

7

- Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ – Đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trứng: cấu trúc này lấy chất liệu từ truyền thống đã trở thành huyền thoại của cội nguồn dân
tộc. Nếu tách riêng, đất là nơi quy tụ của những đàn chim Việt, nước là nơi sinh sống của rồng.
Hợp lại đất nước là đồng bào. Từ Hán Việt được sử dụng ở đây có ý nghĩa tả thực. Câu chuyện
mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sinh thành trăm người con. Nhưng hai chữ “đồng bào” này chủ
yếu mang ý nghĩa biểu tượng, nhắc nhở người Việt ý thức trách nhiệm với tổ tiên. Lời thơ nhắc
đến tổ tiên mang sắc thái trang trọng, thể hiện tấm lòng biết ơn của mỗi con người Việt Nam
hôm nay với những người đã khai sinh ra dân tộc.
=> Như vậy, với cách triết tự từ, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả được cảm nhận toàn diện và sâu
sắc về đất nước trên cả ba bình diện: chiều dài thời gian lịch sử, bề rộng không gian địa lí và
chiều sâu của văn hóa truyền thống.
- Đoạn thơ không chỉ ngợi ca nguồn gốc của người Việt “cha Rồng mẹ Tiên” mà còn ngợi ca đạo
lí “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim tìm tổ người tìm tông”.
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện một tình cảm sâu nặng. Ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, người
Việt có truyền thống giỗ Tổ Hùng Vương để nhớ ơn các vị vua đầu tiên có công xây dựng đất
nước. Hai chữ “cúi đầu” chất chứa sự thành kính, ngưỡng vọng.
+ Sự lây lan cảm xúc ở người đọc góp phần mở rộng đường biên ngữ nghĩa của ý thơ, lời thơ.
Chữ “Tổ” được hiểu là cội nguồn, là cưu mang, chở che. Hơn thế, nói rộng ra là dân tộc, giống
nòi, đất nước, quê hương; nghĩa hẹp là gia đình, dòng họ, ngành nghề. Nhìn chung những câu
thơ nhắc nhở đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người dân tộc.
Bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu
nước Việt Nam.
c. Đất Nước thể hiện trong mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng với rất nhiều thế
hệ nối tiếp (Trong anh và em hôm nay …. Đến những tháng ngày mơ mộng)
- Trước hết là nhận thức của anh và em về đất nước, mỗi người là một phần nhỏ bé tạo nên đất
nước, đất nước đã tạo nên hình hài và tâm hồn của mỗi chúng ta, mỗi chúng ta lại góp cuộc đời
bé nhỏ của mình để tạo nên dáng hình xứ sở “Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần đất
nước”.
- Đất nước hiện hữu một cách kì diệu trong tình yêu đôi lứa. Hình ảnh “hai đứa cầm tay” là sự
giao duyên đằm thắm của một tình yêu tròn đầy, viên mãn. Tình yêu lứa đôi làm cho vẻ đẹp của
đất nước hài hòa nồng thắm.
- Đất nước còn thể hiện trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Hình ảnh “hai đứa cầm
tay mọi người” trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết cộng đồng để đất nước “vẹn tròn to
lớn”. Vẹn tròn về nghĩa tình, to lớn về sức đại đoàn kết để tạo nên bức thành đồng của Tổ quốc.

8

- Ba câu tiếp khắc học hình ảnh đất nước hiện lên trong sự kế tục giữa các thế hệ. Có ba chiều
thời gian hiện lên trong ý thơ: bà, cha, mẹ (quá khứ); anh và em (hiện tại); con ta lớn lên (tương
lai)
+ Hai chữ “mai này” khắc họa thời gian tương lai của đất nước. Anh và em nghĩ về con cháu của
mình với trách nhiệm gánh vác phần người đi trước ở lại bằng một kì vọng sáng ngời niềm tin.
+ Hai chữ “lớn lên” thể hiện niềm tin vào sức mạnh, trí tuệ, bản lĩnh của con cháu – những lớp
người chủ nhân trong hành trình đi tới ngày mai của đất nước.
+ Cụm từ “đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” gợi một tương lai đất nước phồn thịnh tươi
đẹp, điều mà mỗi chúng ta đều mong muốn.
-> Ba câu thơ được viết với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn, khắc họa hình ảnh đất nước
tươi đẹp, trường tồn bất diệt.
d. Đất nước là máu xương, là sinh mệnh của mỗi người (Em ơi em … Làm nên Đất Nước
muôn đời)
- “Em ơi em” là tiếng gọi đầy yêu thương, giãi bày. Từ sự trải nghiệm sâu sắc, Nguyễn Khoa
Điềm khẳng định đất nước là máu xương ruột thịt, là sinh mệnh của mỗi người.
- Với Nguyễn Khoa Điềm, “gắn bó”, “san sẻ”, ‘hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu đất
nước. Tình yêu đất nước không phải là thứ tình cảm hời hợt, nhạt nhẽo mà nó đi từ nhận thức
“đất nước là máu xương” đến hành động nguyện “gắn bó và san sẻ” và biểu hiện cao đẹp nhất là
“hóa thân”, nghĩa là có thể hi sinh vì Tổ quốc , lấy sự sống của bản thân để tiếp nối cho sự sống
của đất nước.
- Điệp từ “phải biết” như một mệnh lệnh nhắc nhở trách nhiệm của mỗi người đối với quê
hương đất nước. Đây là mệnh lệnh của trái tim được truyền tải qua giọng thơ tha thiết, chân
thành nên dễ đi vào lòng người.
- Câu thơ “làm nên đất nước muôn đời” vừa là một khát vọng, vừa là sự khẳng định biết bao thế
hệ nhân dân đã hóa thân, gắn bó, san sẻ để tạo nên đất nước muôn đời.
3. Đất Nước của ai? - Đất nước của Nhân Dân
a. Nhân dân vô danh hóa thân vào linh hồn, không gian đất nước (Những người vợ nhớ
chồng… Những cuộc đời đã hóa núi song ta)
- Với tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới về
thiên nhiên và địa lí của đất nước:
- Thiên nhiên địa lí của đất nước hiện lên vừa quen vừa lạ, thấm đẫm chất liệu văn hóa dân gian.
Quen bởi nó là những danh thắng, những cảnh vật quen thuộc với con người Việt Nam. Quen
9

cũng bởi thiên nhiên không phải do tạo hóa tạo ra mà thiên nhiên nảy mầm từ chính tâm hồn và
số phận của người dân.
- Những danh thắng là sự kết tinh từ những phẩm chất cao đẹp của người Việt: núi Vọng Phu,
hòn Trống Mái gợi tình nghĩa thủy chung sâu đậm. Những cuộc chia li, những tình yêu bi kịch
đã trở thành truyền thuyết bất tử hóa trong lòng nhân dân.
- Vẻ đẹp của không gian đất nước còn là sự hóa thân của những thời khắc lịch sử oai hùng:
+ Hình ảnh ao đầm vốn dĩ là địa hình tự nhiên của vùng đồng bằng chiêm trũng nhưng trong cảm
nhận của nhà thơ nó lại là dấu tích của một thời, dấu tích của chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa
yêu nước, được bất tử hóa qua hình ảnh Thánh Gióng đánh giặc Ân.
+ Hình ảnh “chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” không chỉ nói về vẻ
đẹp địa linh nhân kiệt nơi đất Tổ Phong Châu mà còn cảm nhận được sức mạnh đoàn kết của
người dân Việt trong buổi đầu sơ khai dựng nước.
+ Hình ảnh “những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm” gợi nên vẻ đẹp của những dòng
sông thơ mộng trù phú, đặc biệt là hình ảnh dòng Cửu Long giang với chín cửa sông như chín
con rồng tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, mạnh mẽ của đất nước.
- Những danh thắng trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học, kết tinh vẻ đẹp trí tuệ của
con người dân tộc.
- Đất đai, ruộng đồng, gò bãi của đất nước còn là sự hóa thân cuộc đời của những con người bình
dị, của vạn vật thân thương gần gũi. Con cóc, con gà qua trí tưởng tượng của nhân dân đã hóa
thân thành những đảo lớn, đảo nhỏ để Hạ Long thành thắng cảnh. Những người dân với cái tên
Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm trong quá trình mở mang bờ cõi đã lấy chính tên mình
để đặt cho tên đất, tên làng.
- Tiếp đó nhà thơ khẳng định mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên đất nước, con người
hóa thân vào hình thể núi sông. Theo nhà thơ, ở bất cứ nơi đâu “khắp ruộng đồng gò bãi” đều
mang theo “một bóng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Nghĩa là hình hài, không gian
của đất nước được tạo thành bằng lớp lớp những người dân vô danh đã hóa thân cuộc đời, tâm
hồn mình vào đó trong suốt bốn ngàn năm lịch sử. Chất chính luận suy tưởng và chất trữ tình
đằm thắm hòa quyện với nhau tạo nên những vần thơ đầy chất trí tuệ và giàu cảm xúc.
b. Nhân dân vô danh tạo nên bề dày lịch sử cho đất nước (Em ơi em …. Nhưng họ đã làm ra
Đất Nước)
- Giọng thơ sâu lắng trang nghiêm. Cụm từ “nhìn rất xa”, “bốn nghìn năm đất nước” diễn tả sức
sống trường tồn của đất nước với niềm tự hào sâu sắc.

10

- Trong cảm xúc tự hào, nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn kì diệu và vai trò của nhân dân bình dị
vô danh. Khi hòa bình họ cần cù làm lụng để dựng xây đất nước. Khi có giặc họ sẵn sàng ra trận,
họ là những người anh hùng áo vải hiên ngang bất khuất.
- Từ đó nhà thơ khẳng định nhân dân vô danh là người làm nên lịch sử đất nước.
+ Nhà thơ ngợi ca công lao của những người dân vô danh bằng tấm lòng thành kính. Trong suốt
quá trình dựng nước và giữ nước, những con người lặng lẽ không tên tuổi đã “hóa thân” cho đất
nước. Không đền đài, không bia tượng tôn vinh nhưng núi sông này làm nên từ máu xương của
họ.
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
+ Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã trả đất nước cho chủ nhân chân chính là nhân dân. Đây
không chỉ là tình cảm mà còn là một quan niệm mới – quan niệm nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử. Tư tưởng này của Nguyễn Khoa Điềm mang chân lí của thời đại “Không có mồ hôi, máu
của nhân dân thì các dân tộc không thể có lịch sử” (Ăng-ghen)
- Cái khéo của Nguyễn Khoa Điềm là đã liên hệ thế hệ trước với thế hệ sau “người con gái con
trai bằng tuổi chúng ta”, “giống ta lứa tuổi”, họ đã làm được những điều vĩ đại. Còn thế hệ trẻ
chúng ta đã làm được những gì khi đất nước bị chia cắt? Câu hỏi đó thức tỉnh lòng yêu nước của
mỗi người.
c. Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa của đất nước (Họ giữ và truyền cho ta hạt
lúa ta trồng …. Đi trả thù mà không sợ dài lâu)
- Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được tiếp nối, tôn
tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ.
+ Họ giữ và truyền “hạt lúa”, “ngọn lửa”, thể hiện sự gieo mầm, nuôi dưỡng sự sống kết nối.
Đó là hành động bảo tồn, phát huy những kinh nghiệm canh tác của nền văn minh lúa nước.
Hành động “truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi” thể hiện lối sống nghĩa tình của
nhân dân.
+ “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói” thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Ngôn ngữ là
thước đo của nền văn minh, ngôn ngữ tồn tại là vì nhân dân nhưng cũng vì nhân dân và cũng nhờ
nhân dân lưu giữ bản sắc, tiếng nói của dân tộc để đất nước được trường tồn bất diệt.

11

+ “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” gợi đến những cuộc chinh phục đất
đai, mở mang bờ cõi. Những người dân vô danh đã lấy tên mảnh đất quê hương xứ sở của mình
để đặt cho những miền đất mới. Vì thế, trên suốt chiều dài đất nước hình chữ S này có biết bao
tên làng, tên xã trùng nhau. Mỗi mảnh đất đều trở nên thiêng liêng gắn bó.
+ “Họ đắp đập be bờ để người đời sau trồng cây hái trái” khắc họa hình ảnh nhân dân vừa gieo
trồng vừa gặt hái để lại những giá trị vật chất và tinh thần cho đời sau.
- Nhân dân vô danh còn tạo nên truyền thống bất khuất anh hùng cho đất nước
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
- Trong đoạn thơ, đại từ “họ” được điệp lại năm lần, được đặt ở đầu đoạn thơ thể hiện thái độ
ngợi ca, tôn trọng nhân dân. Nhà thơ còn sử dụng một hệ thống động từ “giữ, truyền, gánh, đắp,
be” làm nổi bật một hình tượng thật lực lưỡng. Quá trình hình thành văn hóa của đất nước giống
như một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân qua các thế hệ.
d. Nhân dân vô danh làm nên cốt cách, bản lĩnh của đất nước (Để Đất Nước này là Đất Nước
của Nhân Dân … Gợi trăm màu trên trăm dáng song xuôi)
- Đoạn thơ mang tính khái quát thể hiện tư tưởng trọng tâm của cả chương “Đất Nước”, là nơi
hội tụ mọi cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm về chiều sâu tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.
- Bằng cảm xúc tự nhiên, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đất nước gắn liền với văn hóa dân gian.
Riêng câu thơ thứ hai có hai vế song song “Đất Nước của Nhân Dân – Đất Nước của ca dao
thần thoại” là một cách định nghĩa giản dị mà độc đáo về đất nước. “Đất Nước của ca dao thần
thoại” là một đất nước mang vẻ đẹp huyền thoại mộng mơ. Đồng thời ca dao thần thoại thuộc về
văn học dân gian, thuộc về nhân dân nên Đất Nước của ca dao thần thoại cũng chính là đất nước
của nhân dân.
- Nhà thơ đã chọn những hình ảnh đặc sắc trong văn học dân gian để nói về những phương diện
quan trọng mang vẻ đẹp tâm hồn, bản lĩnh của đất nước và con người Việt Nam.
+ Đó là đất nước say đắm thiết tha trong tình yêu đôi lứa “Yêu em từ thuở trong nôi – Em nằm
em khóc anh ngồi anh ru”.
+ Đất nước biết quý trọng nghĩa tình.
+ Đất nước của những con người kiên cường bất khuất trước kẻ thù.
- Vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước được kết đọng lại trong những câu thơ cuối. Những
câu hát dân ca trên sông nước hay cũng chính là tâm hồn nhân dân giàu chất thơ soi bóng cùng

12

núi sông. Từ đó Nguyễn Khoa Điềm ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, đặt một niềm tin
bất diệt vào con người đất nước sẽ như những dòng sông trải dài bất tận.
* Tổng kết
- Giá trị nội dung: Đoạn trích đã thể hiện những suy nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của tác
giả về đất nước ở nhiều bình diện với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân Dân.
- Đặc sắc nghệ thuật: kết hợp chất chính luận và trữ tình, vận dụng phong phú chất liệu văn hóa
và văn học dân gian, thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt về nhịp điệu.

13