Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

DE CUONG VAN LOP 12 PHAN DANH HIEU

fab9acbf58a480263c82bc54ad64537c
Gửi bởi: Nguyễn Thúy Hòa 11 tháng 3 2016 lúc 18:01:44 | Được cập nhật: 27 tháng 4 lúc 2:30:23 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 1422 | Lượt Download: 24 | File size: 0 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

VÀNG (XUÂN DIỆU) onthidh March, 2013 23:44 GIÁO VIÊN PHAN DANH HIẾU. LUYỆN (GHI NGUỒN COPY TRANG NÀY) Phân tích đoạn trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu: “Tôi muốn tắt nắng màu đừng nhạt mất muốn buộc gió lại hương đừng Của bướm này tuần tháng mật Này của đồng nội xanh Này của cành phất Của yến này khúc tình này ánh sáng chớp hàng Mỗi buổi sớm, thần hằng cửa Tháng giêng ngon một cặp gần sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa không chờ nắng mới hoài xuân.” HƯỚNG Xuân Diệu nhà của tình tuổi trẻ. được mệnh danh “ông hoàng của tình yêu”. Trước cách mạng, với tập “Thơ Thơ” “Gửi hương gió”, Xuân Diệu chính thức trờ thành “nhà mới nhất trong các nhà mới”. Bài “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” bài rất tiêu biểu phong cách tình của Xuân Diệu viết xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Tác phẩm lại dấu nội dung nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu đoạn đây: “Tôi muốn tắt nắng không chờ nắng mới hoài xuân”2 THÂN Khái quát: Bài “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản 1938 bài tiêu biểu của tập nói riêng, của hồn Xuân Diệu nói chung. bài thể hiện một nhân sinh quan mang nghĩa nhân bản sắc. Thiên đường ngay trên mặt đất. vậy hãy mến, hãy gắn sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy tươi này. bộc niềm sống, khát sống, tận hưởng đến biên tuyệt đích của nhân: cánh làm rắn Làm quấn quít mình xuân Không muốn mãi mãi vườn trần Chân hóa hút mùa dưới đất” Đoạn đầu bằng bốn ngũ ngôn chứa đựng những khát vọng mãnh liệt táo bạo của nhân: “Tôi muốn tắt nắng màu đừng nhạt mất muốn buộc gió lại hương đừng Bốn đầu độc đáo nhất trong bài riêng thể ngôn. thể hợp việc thể hiện những cảm xúc vập của Xuân Diệu bởi ngắn lại giàu nhịp điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc lại lần cùng với động mạnh “tắt, buộc” làm nổi bật khao khát của nhà thơ. khao khát “tăt nắng, buộc gió” giữ lại màu “Cho màu đừng nhạt mất” giữ lại sắc hương hương đừng đi”. khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa buộc hương tươi thắm mãi đời. Ngông cuồng nhà muốn trụ ngừng quay, thời gian dừng lại nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Bởi nhà sợ” tuổi trẻ chẳng lần thắm lại”, ”đời trôi chảy, lòng không vĩnh viễn”. cùng khát vọng của Xuân Diệu thật ngông cuồng nhưng cũng rất hợp lí. Bảy tiếp theo, với hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng khát khao giao cảm mãnh liệt, Xuân Diệu khám phá đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh “Của bướm này tuần tháng mật Này của đồng nội xanh Này của cành phất Của yến này khúc tình này ánh sáng chớp hàng Mỗi buổi sớm, thần hằng cửa Tháng giêng ngon một cặp gần” Bảy trên một bước tranh thiên nhiên xuân được bằng một hồn “Cặp mắt xanh biếc rờn”. Cảnh vật đang vào thanh tân, diễm Bức tranh hội đầy hương thơm, ánh sáng màu sắc, thanh chính phép tương giao giữa các giác quan Xuân Diệu học được phương Tây). Cảnh vật hiện đôi, cặp:” bướm- tuần tháng mật” ;“Hoa- đồng nội xanh rì” lá- cành yến anh- khúc tình si”;… Điệp ngữ ”này đây” được nhắc lại nhiều lần. ”này đây” lại trỏ. Xuân Diệu đang đứng trước bức tranh liệt thấy đẹp tươi non, nõn của xuân. uốn nói với chúng rằng: ”Sao người phải tìm chốn Bồng Tiên Cảnh mãi chốn mông lung hão huyền nào? ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên nhiên một bữa tiệc trần gian đầy những thực quyến cảnh bướm lượn, tình ngọt ngào “tuần tháng mật”. Màu trở thắm sắc ngát hương “giữa đồng nội xanh rì”. cối nảy lộc chồi tạo những “cành với những chiếc tươi phất tình tứ. Điểm vào phong cảnh tiếng hót đắm của loài chim yến tạo “khúc tình đắm lòng người. Cặp mắt “xanh biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang đến người đọc một nguồn năng lượng mới xuân: ”Và này ánh sáng chớp hàng Mỗi buổi sớm, thần hằng cửa”. Ánh sáng buổi sớm phát cặp mắt đẹp cùng của nàng công chúa Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một qua, mắt chớp chớp hàng rồi bừng muôn vàn hào quang. Chính ánh sáng tưới cảnh vật càng làm bức tranh thiên nhiên giống một nguồn nhựa sống chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của người. Thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu đúng: “Không muốn mãi mãi vườn trần Chân hóa hút mùa dưới đất” Hoặc khao khát đến cháy bỏng: “Tôi răng bấu mặt trời đựng trái trìu máu đất chín móng bám vào đời” Xuân Diệu kết lại bức tranh xuân bằng một đầy gợi cảm “Tháng giêng ngon một cặp gần”. một cách sánh đầy gợi cảm, một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm đầy ánh sáng, màu sắc, thanh hương thơm trờ thành “cặp gần” rất “ngon, ngọt” của người tình nhân. xuân đẹp nhất trong năm. Tuổi trẻ tuổi đẹp nhất của đời người. chắc chắn phần ngon nhất của người thiếu chín mọng kia. đây, trong sánh giữa thiên nhiên người, Xuân Diệu mang đến người đọc một quan niệm nghệ thuật người rất mới mẻ. điển thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cái đẹp. Mọi cái đẹp trong trụ phải sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi vậy miêu nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn lồng vào biết nhiêu cái đẹp của thiên nhiên:4 “Vân trang trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu một tiêu chuẩn khác: người mới chuẩn mực của cái đẹp trong trụ này. Bởi người tác phẩm diệu nhất của tạo hóa. mọi đẹp trong trụ phải sánh với đẹp của người. Quan niệm nghệ thuật này một đóng góp mới của cuối trạng của nhân vật trữ tình: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa không chờ nắng mới hoài xuân” Trong một trạng “Tôi sung sướng” “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm giữa phân tách nhà thành nửa: nửa sung sướng nửa vội vàng. trạng “sung sướng” trạng: hạnh phúc, lạc quan, đời, tươi đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết gắn bó. Còn “vội vàng” trạng tiếc nuối bởi nhà tuổi trẻ tuổi già tới. thế đang sống trong xuân nhưng nhân cảm thấy tiếc nuối xuân ngay đang trong xuân “Tôi không chờ nắng mới hoài xuân”. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn lại dấu nghệ thuật sắc. Thể dụng nhiều điệp ngữ, điệp từ, sánh dụ… Ngôn ngữ chọn lọc. Tất tạo một đoạn mang đậm phong cách Xuân Diệu. III. lại, đoạn vừa phân tích trên đoạn nhất trong bài “Vội vàng”. Bằng ngôn ngữ rất đỗi phương, nhưng tình cảm của nhân vật trữ tình lại rất gần gũi, thân quen. Xuân Diệu mang đến người đọc một giọng lạ, một cách cảm nhận xuân rất đỗi nồng nàn. thấy được lòng đời khát vọng sống mãnh liệt của nhân. Đúng nhà bình Thế nhận “Như một tấm lòng sàng ái, Xuân Diệu dang chào đón nhựa sống rào rạt của cuộc đời”. Phân tích Chiều tối của Minh (SGK tập Giáo 2009) giảng của thầy Phan Danh Hiếu. Biên Hòa. Đồng Luyện 2012. Chí Minh được nhân loại biết đến không một lãnh kiệt xuất của tộc Việt còn được biết đến một nhà văn, nhà lớn của thế Ngoài chính luận, người còn lại đời một nghiệp đáng trân trọng. Trong nổi bật nhất tập Nhật trong Tập này một cuốn nhật bằng lại những chặng đường giải đầy gian vất của người Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người vượt hoàn cảnh đày hướng ánh sáng. Bài Chiều một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật trong Chim rừng tìm chốn ngủ Chòm trôi giữa từng không xóm núi tối5 hết than rực hồng. Tháng 8/1942, Bác sang Trung Quốc tranh thủ viện trợ của bạn quốc cuộc cách mạng Việt Nam. mười ngày vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam “mười bốn trăng tái gông cùm” trong gần mươi nhà của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này Người sáng tác tập Nhật trong gồm bài bằng chữ Hán. Bài “Mộ” (Chiều tối) được áng tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển Tĩnh đến Thiên Bảo. bằng tranh thiên nhiên buổi chiều trên đường giải lao. chấm phá, tiểu cảnh thiên nhiên vùng cước thời điểm “chiều tối”. Chim rừng tìm chốn ngủ Chòm trôi giữa từng không Thiên nhiên hiện với nét chấm phá: cánh chim áng mang màu sắc nét. hình ảnh tạo bầu không gian khoáng đãng, rộng, thể hiện điểm nhìn của tác giả “luôn ngẩng đầu trong hoàn cảnh đày”. Buổi chiều dường bắt gặp trong xưa: “Bước tới Ngang bóng tà” “Chiều bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim chòm vốn những liệu rất quen thuộc trong thường dùng miêu cảnh chiều tối một bút pháp miêu thời gian. Bạch trong bài Kính Đình cũng từng viết: Chúng điểu tận độc nhàn (Chim trời mất trôi một mình) Điều mới nếu trong cổ, cánh chim thường chốn tận cùng, định, gợi cảm giác xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương uẩn thì cánh chim trong Bác lại gần thương giờ hết. cánh chim tìm một ngày dài mỏi kiếm Cái nằm chỗ, nhìn cánh chim thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng của cánh chim mỏi của nó. Nghĩa nhà nhìn thấy được vận động trong của cánh chim kia. chính tình cảm nhân đạo của Chí Minh. Cái nhìn thể hiện tình cảm nhân của Người đối với cảnh vật Đúng Hữu từng viết “Bác Bác mênh thống thế/ sông mọi kiếp người”. thấy thêm một nét nghĩa mới: người dường cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người cũng muốn được dừng chân một ngày đày “Năm mươi một ngày/ dầm rách hết giày”. Cùng với “Quyện điểu lâm”, mạn mạn”. Bài dịch khá uyển chuyển, nhưng làm mất loi, trôi nổi, lững của đám mây. Người dịch sót chữ “cô” chưa thể hiện được hết nghĩa của láy “mạn mạn”. vào phần nguyên thấy, hình ảnh đám đơn, đang chầm chậm trôi bầu trời. không làm bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng còn gợi nỗi buồn bâng của người trên đất khách người. Nhưng buồn không lụy, không hắt trong điển. Mặc dịch: “Chòm trôi giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng cũng thấy cái riêng của nó. Chòm trôi nhẹ nhàng, nhàn tản chính hồn người chiến dung tại giải đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều thả hồn chứ không còn cảnh đày mệt6 mỏi nữa. thấy tác giả không cái mỏi, của chính mình. chính TINH THẦN THÉP đại của người Chí Minh. Nhìn chung, đầu bài phảng phất nỗi buồn của lòng người, của trạng người nhưng cảnh buồn không chút lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng “Những buổi chiều vậy, thiếu trong chương kim; nhưng nếu cảnh cái nhìn của một Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên uất chắc chắn đầy đạm, lương. đây, nếu không xuất nhiều người lầm tưởng “Mộ” bài của thời Thịnh Đường” Cảnh chiều vùng cước chút vắng lặng bâng khuâng trong lòng người nhưng biến chuyển nhanh chóng rừng. chính thương trái nhân Người người động: thôn thiếu túc, túc hoàn hồng Sinh thời Chí Minh một ước lớn:“Tôi một muốn, muốn tột bậc làm nước được hoàn toàn độc lập, được hoàn toàn đồng bào cũng mặc, cũng được học hành”. Nghĩa ước của Người luôn hướng nhân dân, nhân không hiểu tộc Việt còn nhân cần trên thế giới. chính tinh thần nhân đạo của Quốc cộng sản. nguyên bản“Sơn thôn thiếu dịch xóm núi” đứng trên bình diện nghĩa của thì không sai. Nhưng dịch không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với người; giọng điệu trang trọng của nguyên tác không hiện diện trong lời dịch. Người phụ nhiều lần mặt trong chữ Hán, nhưng phần lớn thuộc giới thượng hoặc chí cũng gần với giới thượng lưu. Phần lớn người phụ trong mang nỗi buồn thương mác chiến tranh sinh biệt tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán: Khuê trung thiếu bất sầu, Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu. Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao mịch phong hầu. Dịch gái phòng chửa biết sầu Ngày xuân trang điểm dạo lầu Đầu đường chợt thấy xanh liễu Hối chồng kiếm tước hầu.7 Cái mới cũng viết hình ảnh người phụ nhưng Bác lại viết người động với cái nhìn trân trọng thương mang niềm của tấm lòng nhân đạo. chữ “thiếu gợi trẻ trung, tươi tắn của gái cùng với hoạt động làm hiện đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong động. Hình ảnh này làm buổi chiều quạnh mang đến bức tranh sức sống niềm tỏa. cũng chính vậy một nhà bình nào từng nhận xét rằng “Không trước Chí Minh một “sơn thôn thiếu thực người động bước vào thế giới của nàng chưa? biết rằng việc đặt hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ”ở trí trung của tranh phong cảnh chiều tối làm tranh thiên nhiên trở thành tranh cuộc sống người. chuyển đổi thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất hoàn cảnh nào, Chí Minh cũng gắn với cuộc sống người trần thế đặc biệt cuộc sống nhân động”. Tính hiện đại nữa chính nghệ thuật biểu hiện. Tài của Người chỗ cảnh thiên nhiên, cảnh chiều tối không phải dùng đến một tính thời gian nào. bài không chữ tối nào người đọc nhận chữ tối. Người dùng ánh lửa thể hiện thời gian (trời tối mới nhìn thấy than rực hồng). nữa, người đọc còn cảm nhận được bước của thời gian chiều đến tối. gái trời còn ánh sáng; xong thì trời tối. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) túc túc hoàn” cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối ngô. Phải chăng Chí Minh một phát hiện mới trong bút pháp thời gian. ràng, ngay cảnh chiều tối, Chí Minh vận động bóng tối ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc hoàn) thì than cũng vừa hồng), ánh lửa nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào tối cái lạnh hắt của núi rừng. cũng lúc gái được quây quần cúng của đình. Chữ “hồng” nằm cuối bài nhưng một trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được nhãn mắt thần. tạo cái thần thái đặc biệt bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một “hồng”, Bác làm sáng rực toàn bài thơ, làm mất mỏi, oải, vội vã, nặng diễn trong đầu, làm sáng rực khuôn mặt của xong tối. “hồng” trong nghệ thuật đường người gọi “con mắt thơ” (Thi nhãn hoặc nhãn (chữ mắt sáng bùng lên, lại, một thôi với mươi bảy khác đầu nặng đến mấy chăng nữa. Với “hồng” cảm giác nặng mỏi, nhọc nhằn đâu, thấy màu nhuốm bóng đêm, thân hình, động của gái đáng kia. màu tình cảm Bác. vậy chữ “hồng” rất xứng đáng “ông thánh mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng không tỏa chiếc bếp lửa bình của một “sơn thôn thiếu chủ yếu được tỏa tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Chí Minh. nét nghĩa khác, chữ “hồng” còn biểu hiện của cuộc vận động bóng tối ánh sáng. Chí Minh giờ cũng vậy, luôn hướng ánh sáng. Trong bài giải, chữ Hồng cũng từng xuất hiện: Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối tàn sớm sạch không Chữ hồng với chữ hồng trong Chiều cùng một nét nghĩa ánh sáng, niềm vui, lạc quan của người đường cách mạng Việt cũng vậy trong trường trong chông đến với đường vinh quang. Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc, Chiếu cửa nhà lao, cửa cài; Trong ngục giờ tối mịt,8 hồng trước mặt bừng soi. (Trích NKTT) Thành công của bài chính yếu điển kết hợp với hiện đại, giữa hồn tinh thần thép của người cách mạng. Bài làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân của người chiến cộng sản Chí Minh trong hoàn cảnh đày đất khách người nhưng Người vượt trên tất mọi khổ đau, đọa đày thể xác đến người đọc những vần tuyệt bút. bài càng hiểu, càng lãnh Chí Minh của nước Việt chủ cộng hòa. được mượn bốn của nhà Hữu thay lời kết: Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tái gông cùm chân yếu, mắt tóc bạc cánh hạc dung Đề: Bình giảng Tiếng (Chế Viên). dành Nâng Cao. giảng Thầy Phan Danh Hiếu. trưởng THPT Xuân. Biên Hòa. Đồng TRỌNG QUYỀN THẦY BẰNG CÁCH NGUỒN. giảng tiết sau: Tác giả: Chế Viên bút danh của nhà Phan Ngọc Hoan (1920-1989). Trước 1945. Chế Viên nổi tiếng với tập “Điêu tàn” (“Thung lũng thương”). 1945, nổi tiếng với tập “Ánh sáng phù (“cánh đồng vui”). Phong cách: Chế Viên giàu chất tưởng, mang đẹp trí tuệ, hình ảnh luôn mới lạ, ngôn ngữ sắc sảo. Xuất xứ: Tiếng hát tàu viết trong thời miền Bắc dựng XHCN, đặc biệt 1958 đợt gọi đồng bào miền xuôi vùng núi Bắc dựng vùng kinh mới. Tác phẩm được rút tập “Ánh sáng phù sa”. nghĩa nhan Tiếng tàu: Trước 1945, “với tập “Điêu tàn”, Chế Viên xuất hiện giữa làng Việt một niềm kinh (Hoài Thanh). Trong các nhà mới “Thế muốn thoát tiên, Trọng phiêu trong trường tình, Xuân Diệu đốt cảnh bồng mình giới”, còn Chế trốn tránh cuộc đời trong “tinh cầu giá lạnh”: Hãy một tinh cầu giá lạnh9 Một trọi cuối trời tháng ngày tránh Những phiền khổ với buồn Chế Viên đắm chìm trong trong “thế giới điêu tàn”, thế giới của “muôn Hời soạng dắt nhau đi”. Nhưng thành công của CMT8 một luồng gió mới thổi vào hồn người, vào hồn người nghệ sĩ, làm phục sinh hồn tưởng chừng vụt tắt của họ. Chế Viên mình một niềm mới sống mới bằng “Ánh sáng phù sa”. cũng chính lúc Chế Viên “tinh cầu giá lạnh”, nỗi đơn, cái hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân, nhà gọi quá trình “Từ thung lũng thương” “cánh đồng vui”, thế giới “Điêu tàn” đến với “Ánh sáng phù sa”. mượn cách nói của một nhà Pháp “Từ chân trời một người đến chân trời mọi người”. Bài “Tiếng hát tàu” chính hành trình đến với Bắc, đến với nhân dân, với cội nguồn sáng tạo. Hình tượng tàu: thật những Chế Viên viết bài này thì chưa đường tàu cũng chưa tàu nào Bắc. Hình tượng tàu một hình ảnh lãng mạn, mang nghĩa biểu tượng: biểu tượng những cuộc đường, biểu tượng khát vọng vượt khỏi những chật hẹp túng, quẩn quanh đến với cuộc sống lớn của nhân dân, đến với khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cũng với hồn mình. Cảm nhận Chúng hiểu rằng tình trạng chung của tầng lớp nghệ trước 1945 tình trạng sống trong cuộc đời nhỏ hẹp, Chế Viên cũng từng viết thể trong bài “Người hình nước”: chúng ngủ trong giường chiếu Giấc nát cuộc đời con” Những cuộc đời nhỏ hẹp thực rộng CMT8, lúc hồn của người nghệ rộng đón gió, đón nhận hương sắc cuộc đời, cái nhỏ bước vào cuộc đời rộng lớn bốn nỗi lòng, trăn trở của nhà thơ: Bắc riêng Bắc lòng hoá những tàu quốc bốn tiếng hát hồn Bắc “Tây Bắc” đâu? Bắc vùng cực của quốc, trải cuộc chiến tranh chống thực Pháp đầy thương nhưng hào hùng của tộc, “Máu hồn thấm đất”, cũng “Tình đang mong tình đang chờ”, hồi sinh đất chết “Nay dạt dào chín trái đầu xuân”, cần những bàn kiến thiết, cần những hồn dựng. Tác giả khẳng định trong hỏi: “Tây Bắc riêng Bắc”10 Bắc không một hình ảnh thể Bắc còn biểu tượng của đất nước, của quốc, nghĩa nào trên quốc của chúng cần đến nhưng bàn động, những bàn kiến thiết thì “lòng ta”. quốc bốn tiếng hát” thì lúc “Lòng hóa những tàu”. Đặc biệt nữa, gắn kết giữa “Lòng ta”, “tâm hồn với quốc. quốc không ngay hồn “Tâm hồn Bắc đâu”. vậy “Con tàu” chính lòng hồn mang tất sức mạnh, mang niềm vui, mang khát vọng, mang cống hiến đường theo tiếng gọi quốc. Cũng vậy, bốn nguồn cảm hứng toàn bài cảm hứng đường, cảm hứng hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. đầu (giục đường): khổ đầu trạng nỗi niềm khoăn của nhân chuyện hoặc lại. tức đến với vùng đất Bắc nhiều khó khăn, gian khổ. chính lại Nội (cuộc sống đầy đủ). trạng ngại ngại khó khăn gian khổ một thật, không riêng nhà rất nhiều trạng người ngày hòa bình lập lại, khổ chính cuộc đấu tranh tưởng:“Bâng khuâng đứng giữa dòng nước/ Chọn một dòng nước trôi” (Xuân Diệu) đậm trạng nỗi niềm khoăn ấy, nhà dụng hàng loạt hỏi với điệu đầy ảnh, giục giã: “Con tàu này Bắc chăng?” “Anh nghe gió ngàn đang gọi?” “Tàu gọi chửa đi?” chính những hỏi đầy hối thúc, đầy giục giã làm động hồn người nghệ sĩ. Nếu chọn “giữ trời Nội” thì cuộc sống ích hưởng thụ, sống riêng bản thân mình, chắc chắn cuộc sống túng chật hẹp. Nhà cũng bình chính bản thân mình phép đối lập, đối lập giữa đất nước mênh mông nhỏ hẹp của đời anh. chắc chắn sống trong cuộc đời vậy thì không giờ tìm được cảm hứng nghệ: “Chẳng giữa lòng đóng khép”. Người nghệ thể tìm được cảm hứng nghệ phía nhân dân, phía sáng tạo “tâm hồn chờ gặp trên kia”. “Trên kia” chính Bắc, quốc, nhân dân, nguồn cảm hứng mãnh liệt, dồi dào sức sống của nghệ thuật. “gió ngàn đang gọi” đang mời gọi giục giã nhà đường. tiết “tàu đói những vành trăng” nghèo đói của cảm hứng hồn nghệ cũng thấy mang khát vọng đường nhưng chưa thực sức đường. Bởi đang thiếu niềm nhiệt huyết. khổ tiếp theo khát vọng trở lại Bắc. Chính hồi tưởng của nhà cội nguồn Bắc, những niệm mười chiến đấu hùng: Trên Bắc! mười Bắc thiêng liêng rừng núi hùng máu hồn thấm đất rạt rào chín trái đầu xuân kháng chiến! Mười ngọn lửa Nghìn sau, đường nhưng vượt gặp lại thương