Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Chất dân gian được thể hiện trong bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính

Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 2 tháng 4 2019 lúc 15:38:56 | Được cập nhật: hôm kia lúc 12:48:56 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 441 | Lượt Download: 0 | File size: 0.071168 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Chất dân gian được thể hiện trong bài Tương Tư của Nguyễn Bính Bài văn mẫu 1 Trong khi hầu hết các nhà Thơ mới – theo nhận xét c ủa Hoài Thanh “đ ều đ ội lên đầu dăm bảy nhà thơ Pháp” thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò , cây đa, bến n ước….Ông đã trở thành “chủ soái” của trường phái “thơ mới dân gian” gồm Anh Th ơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, th ơ Nguy ễn Bính có ti ếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Di ệu, không tang thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Bài th ơ “T ương t ư” r ất tiêu bi ểu cho hồn thơ và giọng thơ Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết h ợp nhuần nhuyễn giữa nét truyền thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình cái hồn thơ mới. Trong dòng Thơ Mới 1930-1945 ,”Tương tư” của Nguyễn Bính có phong cách c ổ điển dân dã ở cả thi liệu, thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc phương Tây, Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguy ễn Bính tinh ròng ch ất ca dao .Nét truyền thống trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là th ể th ơ truyền thống do người Việt Nam sáng tạo nên. Nguy ễn Bính vận dụng cách ng ắt nh ịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp ch ẵn 2/2/2; 2/4( câu l ục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu bát ) thường thấy của ca dao: “ Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông Một người / chín nhớ / mười mong / một người” Về đề tài, bài thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người con gái. Đây là đề tài thường thấy trong ca dao. Nhớ ai khổ sở thế nầy Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai Nhớ ai, ai có nhớ ai Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình (Ca dao) Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt (Ca dao) Thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò ép nhưng cũng không rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuy ễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm th ơ l ục bát r ất d ễ dàng: “Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi”. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta nh ư đ ược thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của ca dao: Gió mưa là bệnh của trời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng. Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành; Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mà tình xa xôi. Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguy ễn Bính đã tạo nên những dòng thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “chân quê”: Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có ti ếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người mình thương: Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Hay những lời kể chân chất: Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách bi ểu hi ện th ế gi ới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái đình, của làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi. Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc c ủa thơ ca dân gian đã hòa hợp vào “Tương tư” của Nguyễn Bính một cách rất t ự nhiên. Nh ững cụm từ phíếm chỉ tôi- nàng, Thôn Đoài – thông Đông, bên ấy – bên này, bến – đò, hoa – bướm cùng đại từ phiếm chỉ “ai” rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau.Nguy ễn Bính đã làm người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa: “Tương tư thức mấy đêm rồi Biết cho ai biết, ai người biết cho Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này” Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc s ử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả dùng hình ảnh “hoa- bướm” (hoa khuê các, bướm giang hồ), “trầu- cau” (giàn giầu/ hàng cau liên phòng), “bến- đò” (Bao giờ bến mới gặp đò). Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong th ơ ca dân gian, “chín nhớ mười mong” được hoán cải từ thành ngữ ” chín nhớ 10 thương” từ thành ngữ để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, di ễn tả s ự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm chí người ta còn chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ng ữ không còn ý nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng nh ững t ừ t ương h ợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân lên gấp bội: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người” Lối đan chữ “chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng trai đang trong trạng thái “ tương tư”. Trong bài thơ, chất dân gian vẫn không lấn át được những tình đi ệu lãng m ạn v ốn là sản phẩm đặc thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nh ịp đi ệu, hình ảnh và đặc biệt là cảm xúc – tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp. Trước hết ở nhịp điệu: Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguy ễn Bính nhi ều khi phá v ỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong th ơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi tr ữ tình. Tác gi ả s ử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nh ịp th ơ ng ắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, / bướm giang hồ /gặp nhau. Hay sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai: Ngày qua ngày/ lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng. Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truy ền th ống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguy ễn Bính đã tạo cho th ơ l ục bát c ủa ông những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem l ại nh ững xúc c ảm m ới m ẻ cho người đọc. Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm…nhưng đi ều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã th ổi vào đó cái hồn của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô gái “Bóng trăng anh tưởng bóng đèn Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang” “Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ Anh quá thương nàng, trối kệ thị phi” Còn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình ảnh thơ để tạo không gian nhân vật sống, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình: Nắng mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng Sự thực trong câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành th ị c ủa con ng ười th ời Âu hóa với đặc điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám ch ường cái tôi của mình ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh li ệt. Ngay ở tên nhan đề bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng: “tương tư” – nó như phô bày, nh ư khoe lòng mình trước thiên hạ rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều này là một sự hiếm thấy trong ca dao. “Tương tư” của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truy ền thống của dân t ộc nhưng nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới th ể th ơ l ục bát b ằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh đó đó ông đã thổi “hồn quê” vào bài thơ. Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Th ơ M ới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguy ễn Bính là th ứ h ồn quê mang màu s ắc cá nhân. Cũng mang “hồn quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính ph ổ quát còn trong th ơ lục bát của Nguyễn Bính, không gian đồng quê được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ vừa là sự kết hợp, kế thừa của những y ếu t ố truy ền th ống v ừa có những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Bài văn mẫu 2 Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với chất dân ca điệu thơ dân tộc. “Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong s ự nghi ệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca dao: tác phẩm này đã đem đến cho ng ười đ ọc nh ững hình ảnh thân th ương c ủa quê hương đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “T ương t ư” đ ược in lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài th ơ khá tiêu bi ểu cho h ồn thơ Nguyễn Bính nói chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng. Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của nh ững người yêu nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn ch ương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Th ơ m ới” đã có bài “Tương tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là nh ững th ử thách to lớn đối với những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách nói mới. Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn, và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đ ến đ ộ cháy bóng mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gío mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của nh ững người đa tình, đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để th ương thầm nh ớ vụng. Gi ữa chàng trai – nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách tr ở gì v ề cả không gian lẫn thời gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “m ột đầu đình”. Cô gái có thể thuận lợi đủ điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm h ờn dỗi. Nhưng nào có ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài th ơ khác c ủa Nguy ễn Bính thường nói đến mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn dỗi kia rõ ràng trở thành vu v ơ. Thực ra, nh ững l ời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn nhạy cảm, khao khát yêu thương c ủa chính nhà th ơ. Khi cu ộc đời còn những mối tình đơn phương, khi còn những con tim ít tuân theo nh ững quy t ắc rạch ròi; thì người đọc cũng không mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã “t ương t ư” m ột cách vu vơ… Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện một cách mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tôi” có nhu cầu giãi bày, ph ơi tr ải đ ược Nguy ễn Bính diễn tả một cách trực diện không chút vòng vo: “Gió mưa là bện của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Ngoài ra còn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào l ời ăn ti ếng nói của người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xu ất hi ện một cách tự nhiên mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, quê mùa cho toàn bài thơ: “Hai thôn chung lại một làng, Có sao bên ấy chẳng sang bên này? Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?” Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng nh ư những nhà Thơ mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên g ần gũi v ới người đọc và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và t ạo v ật, mà trước đây ít nhiều thi ca bác học chưa làm được. Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất muôn thuở đã được nhà th ơ Nguy ễn Bính thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại, ph ản ánh m ột m ảng tâm hồn của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này. Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi” thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó g ợi lên đ ược cái “hồn xưa đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hoài Thanh. “H ồn x ưa đ ất n ước” không nằm riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà toát ra t ừ toàn b ộ bài th ơ qua h ệ th ống hình ảnh, lời ví von, cũng như giọng điệu chung. Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta không có trong mình một đôi k ỷ ni ệm v ề một làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ m ới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi ông tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn t ằm, tr ẩy h ội, xem chèo,… với trang phục cổ truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò và b ến n ước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó còn có nơi sinh thành và nuôi d ưỡng l ối th ơ l ục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài… H ệ th ống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã đánh thức con ng ười nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao xuy ến về một làng quê Vi ệt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng. Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu tả qua sự biến đổi của cây lá: “Nửa năm hơi tiếng vừa quen Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”. (“Truyện Kiều” - Nguyễn Du) Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian d ựa vào chính s ự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc: “Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Đồng thời thiên nhiên còn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Do sống hoà hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào… đ ể giãi bày tình yêu một cách kín đáo vừa duyên dáng, vừa tinh t ế. Trong bài “T ương t ư”, Nguy ễn Bính s ử dụng triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. N ếu nh ư ở kh ổ thơ thứ hai còn có câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này “hồn xưa đất nước” toát lên từ cách dùng hình ảnh, cách b ộc l ộ tình cảm kín đáo, mộc mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực ti ếp ở ph ần đ ầu đ ến kh ổ thơ cuối, Nguyễn Bính dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh t ế, ph ảng ph ất ch ất h ương đồng cỏ nội của ca dao thuần khiết: “Nhà em có một giàn giầu Nhà tôi có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn C ừ, Anh Th ơ, Bàng Bá Lân… miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có l ẽ ch ỉ mình Nguy ễn Bính nói đúng được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bò hơn là áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều… Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và t ươi sáng. Đấy chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khi ến nhiều người yêu thích thơ ông. Bài văn mẫu 3 Khác với những nhà thơ mới khác Nguyễn Bính không ảnh hưởng bởi phương Tây mà trong nhà thơ luôn có một nỗi niềm hoài cổ. Nếu như Xuân Diệu tiếp thu những cái hay của văn học phương Tây hiện đại thì Nguy ễn Bính lại tr ở v ề v ới nh ững h ơi th ở của ca dao của những gì gọi là truyền thống. Cái “tôi” của Nguyễn Bính luôn là cái tôi bất an, một tâm hồn tha thiết với những giọt cổ truyền của dân tộc đang nguy c ơ mai một trước sự âu hóa của đô thị thị dân. Đặc biệt ông mang cái truy ền thống ấy vào trong sáng tác của mình. Tiêu biểu trong những bài thơ mang đậm hồn quê dân t ộc ấy phải kể đến tác phẩm tương tư. Có thể nói tác phẩm ấy mang đạm màu sắc dân t ộc Việt Nam. Bài thơ được trích từ tập lỡ bước sang ngang, viết về đề tài tình yêu đôi l ứa. bài thơ là lời giãi bày nỗi lòng mong nhớ một cách chân thật tinh tế của một chàng trai thôn quê. Có thể nói tương tư là dành cho những người yêu thương nhau nh ưng phải cách xa nhau khiến cho nỗi nhớ cứ thế trào dâng mãnh liệt. Tâm tr ạng t ương tư cũng mang đầy màu sắc dân tộc. Màu sắc dân tộc trước hết thể hiện trong hoàn cảnh, khung cảnh tương tư. Đến cái tương tư ấy cũng mang đầy màu sắc dân tộc: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” Màu sắc dân tộc được hiện lên ở đây là hình ảnh Thôn Đoài và Thôn Đông. Đó là hình ảnh biểu trưng cho những làng quê mộc mạc mà giản dị nên th ơ. Có th ể nói tình yêu của đồi trai gái ấy không diễn ra trên những cảnh trang hoàng của phố xá đông vui mà là nơi bình yên của làng quê mộc mạc. Thơ Nguyễn Bính mang cái hồn của cảnh vật làng quê, của những gì dân dã nh ất. Cũng nói về nỗi nhớ trong tình yêu và trong cùng một thời điểm thế nhưng Xuân Di ệu xưng “anh” gọi “em” và nói thẳng anh rất nhớ em, nhớ rất nhiều còn Nguy ễn Bính vẫn giữ một thái độ kính cẩn và những từ ngữ xưng hô mang đậm chất ca dao “tôi” và”nàng”, cảm xúc được diễn tả bằng những từ vô cùng tế nhị ẩn ý có chút thẹn thùng chứ không nói thẳng như Xuân Diệu. Câu thơ “ một người chín nhớ mười mong một người” khiến ta nhớ đến câu ca dao “chín nhớ mười thương”. Có thể nói nhà thơ đã sử dụng một cách sáng tạo những câu ca dao ấy. Qua đó nó thể hiện nỗi nh ớ thi ết tha c ủa người con trai dành cho người con gái. Tác giả tiếp tục thể hiện những cái n ỗi nh ớ ấy qua việc ví von nếu “nắng mưa” là bệnh của trời tương tư là bệnh cuả tôi nhớ nàng. Ở đây tác giả thật sự khéo léo trong việc lấy cái tự nhiên, quy luật kia để chỉ cho tình yêu. Điều đó thể hiện tương tư là một lẽ tất yếu như mưa nắng của trời khi con ng ười ta yêu. Không những thể sang những câu thơ tiếp theo Nguy ễn Bính đi sâu vào th ể hi ện tâm trạng của mình mà đồng thơi qua đó ta cũng thấy được những màu sắc dân tộc được nhà thơ thể hiện một cách triệt để: “Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng Bảo rằng cách trở đò giang Không sang là chẳng đường sang đã đành Nhưng đây cách một đầu đình Có xa xôi mấy cho tình xa xôi? Tương tư thức mấy đêm rồi Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? Bao giờ bến mới gặp đò Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?” Hình ảnh những xóm làng cổ xưa như hiện ra trước mắt chúng ta, nó càng th ấm thía vào chúng ta những màu sắc dân tộc. Gọi là hai thôn đ ấy nhưng mà cũng ch ỉ n ằm trong một làng. Tác giả đặt câu hỏi đó để nhằm trách móc cái ng ười mà mình nh ớ thương. Nó phảng phất hương vị của ca dao khi yêu thương thì tương tư nhưng không thể đến bên nhau năm tay nhau lộ liễu một cách như bây giờ được. Điệp ngữ ngữ “qua ngày” càng làm tăng thêm sự nhớ nhung của người con trai ấy. Xa cách nhau khi ến cho thời gian trôi qua dẫu có ngắn mà cứ tựa ba thu, những chi ếc lá xanh đã chuy ển thành màu vàng cũng như người nhớ nhung ấy đang héo hon vì thương nhớ. Hình ảnh mang đậm những nét đẹp làng quê. Đó là nét đ ẹp c ủa mái đình, c ủa những chuyến đò qua sông. Bến nước con đò không chỉ là hình ảnh mang đầy màu sắc dân tộc mà nó trở thành hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, không riêng th ơ Nguy ễn Bính mà hình ảnh ấy đã trở đi trở lại không biết bao nhiêu trang thơ của những nhà thơ khác. Nhưng cái khác ở đây là hình ảnh ấy không mang nghĩa của s ự đ ợi ch ờ m ột người khác mà nó mang nghĩa của sự cách trở trong tình yêu. Tuy nhiên ở trong tác phẩm thì sự cách trở đó là giả thiết để cho người con trái trách móc người con gái vì sao lại không sang trong khi không có sự cách trở sông đò. Sự cách trở ấy chỉ cách có cái đầu đình mà sao lại thấy tình xa xôi đ ến th ế. Hình ảnh cái đình kia gợi cho ta biết bao nhiêu là vẻ đẹp của những cảnh làng quê dân tộc ta, ở đó không chỉ là không gian cho những sinh hoạt thường ngày mà đó còn là n ơi cho người ta hò hẹn. chàng trai kia như muốn trách sự vô tâm c ủa người con gái. Th ế nhưng là người con gái vô tâm thật hay chính là do s ự tương t ư làm cho chàng trai ng ỡ cô gái vô tâm với mình. Nỗi tương tư ấy làm cho chàng trai th ức m ấy đêm không ng ủ được, câu hỏi tu từ lại được cất lên để cho thấy được sự trách móc cũng là nh ớ nhung của anh. “hỏi ai người biết cho”. Và chính từ những n ỗi nh ớ ấy mà chàng khát khao được gặp nàng. ở đây tác giả vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ của ca dao x ưa (b ến- đò, hoa khuê các- bướm giang hồ). Đến những câu thơ cuối cùng chàng trai tiếp tục th ể hi ện tâm tr ạng và ước mu ốn của mình thông qua đó ta thấy được những hình ảnh mang đậm chất dân tộc: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Anh và em vẫn còn một khoảng cách xa xôi quá ch ừng, hình ảnh tr ầu cau hi ện lên với số lượng là một thể hiện sự đơn độc lẻ loi của cả hai bên. Đồng thời th ể hi ện được ước nguyện của chàng trai là nên duyên cau trầu với hình ảnh đám cưới làng quê giản dị ngọt ngào lắm. Không chỉ ở nội dung thơ mà ngày cả đến nghệ thuật thơ Nguyễn Bính cũng mang đến một màu sắc dân tộc khó quen. Ngoài những câu ca dao kể trên thì ta còn th ấy màu sắc dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc ta. Nó góp ph ần mang lại phong cách nghệ thuật cũng như hồn thơ Nguyễn Bính. Qua đây ta cảm nhận được một cảm xúc mà ai khi yêu đều phải trải qua. Đó chính là sự tương tư nhớ thương một người khác. Chính vì nhớ thương nên nghĩ ng ười khác vô tình với mình và trách móc người ta. Tình yêu nó làm cho người ta cứ cái buồn vô c ớ mà trở thành có cớ. Đồng thời qua đó ta cũng thấy được những màu sắc dân t ộc trong thơ Nguyễn Bính giàu đẹp như thế nào.