Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Lão Hạc

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 28 tháng 10 2019 lúc 10:55:11


Mục lục
* * * * *

Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.

   Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận. Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.

   Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ, ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng,… cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vợi đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.

   Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy,… nghĩa là vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.

   Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông. Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.

   Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan,… Ông còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.

   Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.

   Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.

Phân tích hai nhân vật cha và con trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Lão Hạc là truyện ngắn thành công của Nam Cao viết về đời sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Lão Hạc, nhân vật chính trong truyện, là một nông dân chất phác, đôn hậu, có nhiều nỗi khố tâm, sống trong cảnh nghèo đói đơn độc độc nhưng giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

   Xã hội trong truyện Lão Hạc là một xã hội bất công, cầm tù nhân dân trong cảnh nghèo đói, lam lũ. Bên cạnh những người do nghèo đói mà đi ăn trộm như Binh Tư, còn có những con người lương thiện giàu lòng tự trọng như Lão Hạc - đóa sen thơm ngát giữa ao bùn!

   Là một nông dân nghèo, không có ruộng, lão phải cày thuê cuốc mướn. Lão dành dụm, chắt chiu mới có mảnh vườn nho nhỏ. Tài sản duy nhất giúp lão có thêm chút hoa màu. Hoàn cảnh lão thật đơn chiếc; vợ lão mất sớm, còn hai cha con mà phải chật vật mới đủ án hàng ngày, lấy đâu ra cho con trai cưới vợ? Tiền mặt, tiền cau, tiền rượu, tiền cưới nữa chắc phải mất đến hai trăm. Không cưới nỗi vợ, con trai lão buồn rầu bỏ đi phu cao su, gửi lại biếu bố vài đồng bạc ăn quà và con chó Vàng - dự định sẽ thịt trong ngày cưới. Vợ mất, con đi biệt xứ với lời hẹn có bạc trăm mới trờ về, lão sống cô đơn, hiu quạnh với tuổi già, chỉ có con Vàng làm bạn. Lão dồn tình thương nhớ con trai cho con Vàng. Ngòi bút bùi ngùi xúc động: "Già rồi, mà ngày cũng như đêm, thui thủi một mình thì ai chả buồn. Những lúc đó có con Vàng làm bạn cũng đỡ hơn một chút. Lão và con Vàng sống lây lất qua ngày với củ ráy, củ khoai, bữa trai, bữa ốc... Vậy mà ngặt nghèo đến nỗi lão phải xa con Vàng. Trong nụ cười gượng gạo, chứa chan bao nỉmỹ mắt, cay đắng, xót xa cho số phận: Thì ra cậu Vàng ăn khỏe hơn tôi, ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ăn thế thì tôi lấy đâu ra tiền mà nuôi. Thôi thì bá phắt đi, đơc được đồng nào hay đồng nấy". Xã hội khắc nghiệt đã cướp đi tất cả niềm vui nhỏ bé của lão. Chưa hết tai ương, cơn bão lại cướp đi những hoa màu ít ỏi trong vườn. Rồi cơn ốm hai tháng mười tám ngày đã đẩy lão xuống tận cùng cơ cực, nghèo đói. Lão chọn cái chết khốc liệt, chua chát: tự đầu độc.

   Câu chuyện chúng tò lão Hạc là con người đôn hậu. Những lời tâm sự, suy nghĩ chân tình của lão trong cảnh ngặt nghèo khi nói với ông giáo khiến ta mủi lòng. Lòng đôn hậu của lão còn biểu hiện cảm động hơn qua cách chăm sóc con Vàng. Lão chăm sóc nó như chăm một đứa trẻ: cho nó ăn cơm bằng bát, lão ăn gì cũng cho nó ăn: lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta găp thức ăn cho con trẻ, rồi lão bắt rận, rồi lão tắm cho nó, rồi nựng nịu măng yêu nó... Đên lúc túng quẫn không còn gì để nuôi nó, thậm chí không còn gì để nuôi thân, dự định bán nó đi mà lão đắn đo mãi. Khi bán nó rồi lão khóc vì thương: lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước và nhất là vìlão xót xa thấy "gìa bằng ấy tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó". Lòng thương và nỗi ân hận của lão đối với con Vàng sâu sắc đến mức trở thành nỗi đau khôn lường: mặt lão đột nhiên co rúm lại... cái miệng móm mém của lão mếu như con nít Lão hu hu khóc và ân hận:

   "Khốn nạn ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu!... nó cứ làm in như là nó trảch tôi...: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này đấy à?".

   Thật là một con người đôn hậu, chất phác! Biết bao người dám lừa bịp và xử tệ với thân nhân, đồng loại không một chút xót thương. Vậy mà lão Hạc, do hoàn cảnh ngặt nghèo vẫn tự trách minh chưa tốt với con chó!

   Không những thế, lão Hạc còn là một nông dân giàu tự trọng. Dù sống trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn, lão vẫn giữ lòng tự trọng. Lão nghèo nhưng không hèn, không vì miếng ăn mà quỵ lụy kêu xin ai. Thậm chí đoán vợ ông giáo hơi có ý phàn nàn về sự đỡ đẫn của ông giáo đối với mình, lão đã lảng tránh ông giáo.

   Tự trọng đến mức không muốn sau khi minh chết còn bị mọi người khinh rẻ. Chẳng còn gì ăn mà lão vẫn không hề đụng tới số tiền dành dụm và đem gửi ông giáo để nếu mình chết thì ông tang ma cho minh: "Con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; đề phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt được mắt..." Thật là một nhân cách hiếm có trên đời!

   Cảm động hơn là tấm lòng lão Hạc dành cho đứa con trai độc nhất của lão. Thương con lão ước mong cho con hạnh phúc. Dù đói khỗ không còn cái án nhưng biêt con trai không đủ tiền cưới vợ, lão vẫn giữ nguyên vẹn cái vườn cho con với ý nghĩ "mẹ nó tậu thì nó hưởng". Vì nghèo, lão không cưới được vợ cho con. Càng đau xót hơn khi con đi làm đồn điền cao su "nó là người cùa người ta rồi, chứ đâu có còn là con của tôi". Thương nhớ con, lão nói chuyện với con Vàng và cảm thây như vơi đi nỗi nhớ con vì con Vàng là một kỉ niệm của con trai lão để lại.

   Thương nhớ con, lão suy nghĩ sâu xa, không thể bán vườn vi lão nghĩ đến tương lai của con. Lão đã để riêng hoa lợi của khu vườn, dành làm vốn cho con sau này. Lão đã hi sinh tất cả vì con. Trước khi mất, lão gửi mảnh vườn lại cho ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão để khi con trại về giao lại cho con. Lão chết nhưng tấm lòng vẫn hướng về con và mong muôn cuộc sông của con trai mình không gặp cảnh đớn đau như lão. Bi thương thay cuộc đời lão Hạc!

   Lão muốn sống trong sạch nhưng xã hội ấy không cho lão sống. Cuộc đời quá bế tắc, lão phải tự tử để bảo toàn danh dự của minh. Cái chết của lão Hạc đã chứng minh sự trong sạch cùa lão. Cái chết của lão đã tố cáo xã hội đen tối thời bấy giờ không thể chấp nhận một con người lương thiện như lão. Lão Hạc quả là một nhân cách cao đẹp, dù cuộc sống có cơ cực đến đâu. Nam Cao đã khắc họa được hình ảnh lão Hạc thật đẹp đẽ, cao quý như hình ảnh những con cò, con hạc trong bài ca dao:

"... Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con"

   Là một nông dân sống trong hoàn cảnh ngặt nghèo của xã hội thực dân, phong kiến, con người luôn bị cảnh chết chóc đe dọa hàng ngày. Vậy mà lão Hạc vẫn giữ tròn phẩm chất cao quý, bàn chất lương thiện. Tấm lòng yêu thương và hi sinh vì con của lão thật đáng quý. Xúc động trước tình phụ tử cao quý thiêng liêng của lão Hạc, em lại càng yêu quý và ngưỡng mộ con người chất phác mà cao thượng ấy. Sự ra đi cùa lão Hạc tuy đớn đau, nhưng chẳng khác nào một cánh hạc thanh cao từ bò trần gian, bay vút tận trời xanh.

   Lão Hạc là hình tượng cảm động và cao quý về người nông dân thời Pháp thuộc. Trước khi mất, lão gửi mảnh vườn cho ông giáo, người hàng xóm thân thiết và tin cậy của lão để khi con trai về, giao lại cho con. Lão tự đầy mình đến cái chết, để không ăn vào số tiền và mảnh vườn, với mong muốn cuộc sống của con mình không gặp khó khăn như lão. Vậy là con trai lão Hạc là người như thế nào?

   Đó là một thanh niên vắng mặt, là tất cả yêu thương và mong đợi của lão. Qua nỗi nhớ của lão, ta hiểu thêm tính cách của anh thanh niên con trai lão Hạc?

   Trước hết, anh là một đứa con trai yêu quý của lão Hạc. Mẹ mất, anh vẫn chăm chỉ làm ăn, ước mơ lấy được người con gái anh yêu và sống hạnh phúc bên nàng. Anh đã chuẩn bị chu đáo cho đám cưới, nuôi con chó để dành cho tiệc vui. Thế nhưng gia đình cô gái thách cưới quá cao, gần trăm bạc Lão Hạc phân tích cho con: "Bán vườn rồi thì cưới vợ ở đâu?" Thế là cô gái anh yêu trở thành vợ người khác!

   Anh ra đi, phải ra đi vì phẫn chí bởi ở lại càng đau khổ! Xa quê hương và người cha thân yêu, anh rất khổ tâm. Nghèo đến không lấy nổi vợ, thật đau xót! Thương cha, có hiếu nhưng anh vẫn phải ra đi, mong.có bạc trăm mới trở về để trả món nợ danh dự! Thế là anh xin đi làm đồn điền cao su nhưng ai mà không biết:

Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi vẻ bủng beo!

   Chỉ có anh, biết hay không biết, anh vẫn đi với biết bao đau xót và phẫn uất, phẫn uất nên vẫn liều lĩnh đi... ước mơ, hỉ vọng... thật là đau xót, đáng thương!

   "Tôi chỉ chỉ biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó người ta giữa. Hình của nó người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con của tôi". Đó là tiếng than đứt ruột của người cha thương con hết lòng mà phải chịu sống xa con! Cha xót, con phải đau! Anh rất hiếu thảo, ngay khi nhận được tiền đăng kí, anh đã nghĩ đến cha: "Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà... Con đi chuyến này cố chí làm ăn bao giờ con có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm..." thương cha và hiếu thảo, anh đã nghe lời cha "chẳng lấy đám này thì lấy đám khác" mặc dầu anh đã trót yêu cô gái. Anh là nạn nhân của tục thách cưới!

   Nơi anh tìm đến với hi vọng chịu khó để có bạc trăm lại là nơi đầy đọa và bóc lột sức lao động tinh vi, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Phải chăng anh quá chân thật, hiền lành nên đã ước mơ xa thực tế, chỉ có lão Hạc đã nhìn rỗ vấn đề "nó là người của người ta rồi, chứ đâu là con tôi?" Hóa ra anh là nạn nhân của bọn thực dân Pháp trong việc chúng vơ vét tài nguyên và nhân lực Việt Nam. Muốn vươn lên, rửa món nợ danh dự, muốn sống đầy đủ và hạnh phúc, anh lại rơi vào cái bẫy, trở thành nô lệ đáng thương! Từ đây, cho anh sẽ mỏi măt chờ đợi bời lẽ thường tình đã được đúc kết:

Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân

   Hình ảnh con trai lão Hạc tiêu biểu cho người thanh niên chân thực, biết yêu thương, có khát vọng vươn lên, sống tốt đẹp bằng công sức lao động của chính mình. Thương cha nhưng bất đắc chí anh đã trở thành nạn nhân của chế độ bóc lột đương thời.

   Nghệ thuật xây dựng rất độc đáo, hình tượng con trai lăo Hạc chì được phản ánh thông qua cuộc nói chuyện tâm tinh giữa lão Hạc và ông giáo. Hình ảnh con trai lão Hạc không rõ nét bằng lão Hạc nhưng thật đáng thương. Cùng với lão Hạc, hal nhân vật đã nêu bật chủ đề tác phẩm và tố cáo chế độ đương thời. Trong đó, những người lao động chân chính là nạn nhân của nghèo đói, hủ tục cưới xỉn rườm rà và thực chát bóc lột của các đòn điền cao su do Pháp lâm chủ. Bên cạnh hlnh ảnh của chị Dậu, anh Dậu, cái Tí, lão Hạc và con trai lão Hạc góp phần làm rõ bức tranh hiện thực của xã hối ta thời Pháp thuộc.

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Lão không chỉ đại diện cho số phận cùng cực, bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ mà lão còn là đại diện cho những phẩn chất cao quý, tiềm tàng trong họ.

   Trước hết lão hạc là người có số phận bất hạnh. Lão góa vợ, sống một mình nuôi con, vì gia cảnh nghèo khó, số tiền thách cưới lại quá cao nên lão không thể lấy vợ cho con, bởi vậy trong lòng lão lúc nào cũng mang tâm trạng dằn vặt, đau đớn. Cũng bởi việc này mà con trai lão bỏ đi đồn điền cao su, bặt vô âm tín. Về già những tưởng có người chăm sóc thì lão lại phải sống trong cảnh cô đơn. Lão không được sống cuộc đời an nhàn, thảnh thơi, dù già nhưng lão vẫn đi làm thuê, để tích cóp cho con. Nhưng số phận trêu đùa, một trận ốm nặng lấy hết tiền lão đã dành dụm, trận bão cướp hết hoa màu. Càng trớ trêu hơn khi cậu Vàng – kỉ vật con trai lão để lại, lão yêu nó hơn cả bản thân nhưng nay lão lại phải bán nó đi. Lão rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng. Nhưng thực tế khốn khó, dù vô cùng đau đớn lão cũng đành phải bán cậu Vàng. Sau khi bán cậu Vàng, lão rơi vào khủng hoảng tâm lí trầm trọng: “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”, “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão ân hận, day dứt khi đã bán cậu Vàng. Lão tự kết tội mình là đã đánh lừa một con chó. Trong cuộc đời đầy những vất vả, đổi trắng thay đen, người ta lừa lọc nhau để sống nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã bán một con chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và nhân cách cao đẹp trong con người lão Hạc. Dù đã bán cậu Vàng những cuộc sống vẫn lão ngày một nghèo khó, lão vớ được thứ gì ăn thứ đó và cuối cùng lão đã tìm đến cái chết như một cách tạ tội với cậu Vàng và giải thoát chính mình. Tuy nhiên, cách giải thoát của lão hết sức bi thảm: tự tử bằng việc ăn bả chó. Việc một con người giàu lòng yêu thương, trung thực phải tìm đến cái chết đau đớn vật vã như vậy tự bản thân nó đã bao hàm ý nghĩa lên án, tố cáo xã hội phi nhân tính.

   Không chỉ vậy, lão còn là một người cha hết mực thương con và có trách nhiệm. Khi con bỏ đi đồn điền cao su, lão luôn cảm thấy đau đớn, xót xa vì đã không làm tròn vai trò của một người cha. Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn hết vào việc chăm sóc cậu vàng: lão âu yếm trò chuyện với nó, cho nó ăn cơm trong bát như nhà giàu,… Lão không ngừng lao động, chắt chiu, tằn tiện để dành dụm cho con. Lão quyết tâm tìm mọi cách để giữ lại mảnh vườn cho con. Những ngày đau ốm, cùng trận bão đã cướp sạch đi tiền của và hoa màu của lão, những ngày sau đó lão sống lay lắt, tằn tiện cuối cùng lão quyết định tìm đến cái chết. Trước khi chết lão sang nhà ông giáo gửi gắm lại mảnh vườn, để sau này đứa con trở về vẫn có nơi làm ăn sinh sống. Lão chu toàn trong tất cả mọi việc, không chỉ suy nghĩ trong hiện tại, mà còn bảo vệ tài sản cho con cả ở tương lai. Ông quả là có tình yêu thương con sâu sắc, tha thiết.

   Lão Hạc còn là người có lòng tự trọng sâu sắc. Lão luôn sống bằng sức lao động của mình. Dù ông giáo có thiện ý giúp đỡ nhưng lão vẫn từ chối: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng ăn một vài củ ráy hay bữa ốc”. Nhân cách trong sáng của lão còn thể hiện trong dòng nước mắt, trong lời nói đầy ân hận khi lão đã chót lừa cậu vàng, và lão đã lấy cái chết đau đớn, vật vã như một con chó để tạ lỗi với cậu Vàng. Trước khi chết lão chuẩn bị hết sức chu đáo, lão gửi lại tiền ma chay cho ông giáo để sau này khi chết đi không làm phiền đến hàng xóm. Lão quả thật là một con người có nhân cách cao đẹp đáng trân trọng.

   Để miêu tả toàn bộ cuộc đời nhân vật, tác giả đã lựa chọn hình thức trần thuật hết sức phù hợp. Lấy người kể chuyện là ông giáo sẽ đem đến nhiều hiệu quả: là người gần gũi chứng kiến toàn bộ cảnh đời lão Hạc nên câu chuyện được thuật lại tự nhiên, chân thật, khách quan. Việc trần thuật từ ngôi thứ nhất khiến cho mạch kể linh hoạt, kết hợp giữa kể, tả và bình luận. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: tính cách, phẩm chất của nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động và sự đánh giá của các nhân vật khác. Ngôn ngữ nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ.

   Nhân vật lão Hạc đại diện cho người nông dân Việt Nam mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp: tình yêu thương và lòng tự trọng, nhân cách cao đẹp. Qua nhân vật này tác giả vừa bộc lộ thái độ yêu thương, trân trọng đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng.

Dàn ý Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc

A. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Lão Hạc: “Lão Hạc” là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn hiện thực- nhân đạo Nam Cao.

- Giới thiệu và khái quát những nét chính về nhân vật ông giáo: Nhân vật ông giáo trong tác phẩm tuy không phải là nhân vật chính nhưng lại vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Lý lịch và hoàn cảnh nhân vật.

- Ông giáo là một tri thức nghèo ở nông thôn, có hoàn cảnh khó khăn.

   + Nếu như với một người nông dân như lão Hạc, sự nghèo đói khiến lão phải bán đi con chó – người bạn thân nhất của lão, thì với một trí thức như ông giáo, thứ ông quý trọng nhất, nâng niu nhất nhưng cuối cùng ông vẫn phải bán chúng đi để chữa bệnh cho con – đó là sách.

   + Cuộc sống khó khăn của ông giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của ông. Sự nghèo đói, khổ cực đã khiến thị trở nên ích kỉ với tất cả mọi người, ngoại trừ những đứa con của thị.

⇒ Cuộc sống khó khăn bao trùm lên ngôi làng nhỏ, dù là một người trí thức cũng không thể thoát khỏi vòng vây của cái đói, cái khổ.

Luận điểm 2: Ông giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương.

- Ông giáo khác vợ ông ở chỗ, dù nghèo đói, túng quẫn, nhưng ông vẫn giữ được cái phẩm chất, cái lòng thương người, đồng cảm của mình, đặc biệt là với ông bạn già – lão Hạc.

   + Từ khi con trai lão Hạc ra đi, ngoài cậu Vàng thì có lẽ, ông giáo chính là người thấu hiểu và đồng cảm với lão nhất, ông luôn lắng nghe mọi tâm sự của lão Hạc, từ việc con trai không có tiền cưới vợ phải bỏ đi đồn điền, đến việc lão muốn bán chó, muốn gửi vườn, gửi tiền,…

   + Ông giáo luôn muốn giúp đỡ lão Hạc, dù chỉ là củ khoai, chén rượu, khi lão Hạc từ chối sự giúp đỡ của ông, ông giáo vừa buồn vừa thông cảm. Sự giúp đỡ duy nhất của ông dành cho lão, có lẽ là giữ vườn và tiền làm ma hộ lão.

- Không chỉ với lão Hạc, ông giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỉ của người vợ: “ Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi”

Luận điểm 3: Ông giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý.

- Tưởng như trong câu chuyện này, lão Hạc đã là người khổ nhất, đáng thương nhất, nhưng nếu như nhìn lại tất cả, có lẽ ông giáo mới là người đáng thương nhất.

   + Ông giáo là nhân vật đại diện cho tầng lớp trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.

   + Sự bế tắc ấy được thể hiện ở chỗ ông chính là người chứng kiến mọi đau khổ của lão Hạc, con lão, của vợ ông, và có lẽ của rất nhiều người khác, những ông chỉ có thể đứng nhìn mà không thể cứu giúp họ khỏi cái khổ đau ấy.

   + Ông giáo không chỉ gánh trên vai sựu thiếu thốn về vật chất mà còn gánh cả nỗi đau về tinh thần, đó là sự dày vò, day dứt khi không thể làm gì cho xã hội, cho đất nước, như chính trách nhiệm của một nhà nho, nhà trí thức đương thời.

   + Khi vợ ông ích kỉ với lão hạc, ông chỉ “buồn chứ không nỡ giận”, khi nghe Binh Tư nói lão Hạc muốn đánh bả chó, ông chỉ biết thốt lên “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Và cho đến khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, điều duy nhất ông có thể làm đó là giữ trọn lời hứa với lão.

⇒ Tình cảnh bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông giáo khiến người đọc thấy đâu đó trong con người ông là nỗi lòng, tâm sự của chính tác giả - nhà văn Nam Cao.

C. Kết bài:

- Khẳng định lại phẩm chất của nhân vật ông giáo và vai trò của nhân vật trong toàn bộ tác phẩm: Ông giáo có những phẩm chất đại diện cho tầng lớp trí thức đương thời.

- Liên hệ và đánh giá về cảm hứng nhân đạo, nhân văn của truyện: Đọc truyện, người ta thấy lấp ló đằng sau nhân vật ông giáo ấy chính là hình ảnh tác giả với tấm lòng nhân đạo cao cả và nỗi lòng bế tắc trước cảnh ngộ của những người dân lao động.

Phân tích nhân vật ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

 Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề trọng xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống một cuộc đời đầy đau khổ nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn thạt cao quý. Nếu lão Hạc là hình tượng nhân vật gảy xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng vả nhân cách cao thượng thì ông giáo cũng là điểm sáng về tinh thương người, về cách nhìn đầy cảm thông trân trọng đối với người nông dân nghèo đói đương thời.

   Trước hết, ta thấy nhân vật "tôi" trong tác phẩm là một người tri thức nghèo. Nghề giáọ trong xã hội ấy thường bị thất nghiệp. Mọi mơ ước, lí tưởng, mọi nhiệt tình sôi nỗi của tuổi trẻ đành bỏ dở và phai nhạt dần. Kể cả những cuốn sách quý giá ông giáo cũng đành bán đi để chữa bệnh cho con. ông giáo, do đó, rất cảm thông với nỗi đau xót của lão Hạc... ông tâm sự như muốn nói với người bạn đồng cảnh ngộ: "Lão Hạc ơi!Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão qúy con chó Vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi!"

   Từ kinh nghiệm, từ nỗi đau bản thân, ông giáo dễ dàng thông cảm với lão Hạc. Ông thấy được phẩm chắt cao quý của lão Hạc và rất trân trọng lão Hạc. Ông đã nhận xét nếu không hiểu sâu tâm hồn phẩm chất của họ, ta chì thấy họ ngu dốt, gàn dở, xấu xa! Ngược lại, đã hiểu và yêu quý Lão Hạc, ông giáo ngầm giúp đỡ lão Hạc đến nỗi vợ của ông phàn nàn trách cứ. Đó là thời buổi cái đói khổ và cái chết chóc đang rình rập bất cứ ai! Hiểu nhau ở tinh thần, thể hiện bằng hành động giúp đỡ cụ thể, điếu đó rõ là tình cảm sâu xa, nhân hậu.

   Tuy nhiên, cả một xã hội đang bị cảnh chết đói đe dọa, có người còn giữ được đạo đức nhân cách, có người phải trộm cắp để sống. Vì vậy, thấy Lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông giáo lầm tưởng lão Hạc cũng từ bỏ nhân cách, đói nghèo đến liều lĩnh rồi. Dù vậy, ông giáo cũng suy nghĩ rất nhân hậu: Lão Hạc lại nối gót Binh Tư làm nghề bắt trộm chó để sống, lẽ nào một con người hiền lành chất phác như vậy mà giờ đây lại có ý nghĩ và hành động xấu xa đến như thế? Vừa kính nể về nhân cách, vừa thương vì hoàn cảnh túng cùng, ông giáo cảm thấy buồn trước sự suy thoái đạo đức. Đến lúc nghe và thấy cái chết thảm khốc vì ăn bả chó của lão Hạc, ông giáo chợt nhận ra: "Không! Cuộc đời chưa hằn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác". Thật vậy, cuộc đời chưa hẳn đáng buồn vì Lão Hạc vẫn là con người có đạo đức, có nhân cách cao quý, Lão Hạc vẫn xứng đáng với niềm tin của ông, lão chưa mất nhân phẩm vì miếng cơm manh áo! Chưa hẳn đáng buồn, vì lão Hạc vẫn là con người có đạo đức, có nhân cách cao quý, lão Hạc vẫn xứng đáng với niềm tin cậy của ông, lão chưa mất nhân phẩm vì miếng cơm manh áo! Nhưng đời đáng buồn theo nghĩa khác: ông giáo buồn vì con người mà ông đang yêu mến, quý trọng ấy lại nghèo đến nỗi không có cái ăn để tồn tại trên cõi đời này. Cuộc đời con người lương thiện lại bi thảm đến thế? Vậy thì chân lí "ở hiền gặp lành" còn tồn tại nữa chăng?

   Đối với lão Hạc, còn quý gì hơn lời hứa thực hiện điều ông trăn trối: Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão... cái vườn mà lão nhất định không chịu bán đi một sào". Ta như nghe ông giáo đang thề nguyện trước vong linh người đã khuất, ta tin rằng ông sẽ làm tròn lời hứa với lão Hạc.

   Truyện Lão Hạc đã cho ta thấy xã hội đương thời có nhiều cảnh bi thương, dồn con người lương thiện vào đường cùng không giúp được, không cưu mang nổi nhau để cuối cùng phải tự kết liễu đời mình mọt cách thảm thương. Ý nghĩa tố cáo của truyện thật sâu sắc!

   Tóm lại, ông giáo là người trí thức, không may mắn trong xã hội đương thời nhưng vẫn có tấm lòng nhân hậu đáng quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông chia sẻ và quý trọng một người chất phác thật thà như lão Hạc. Biết bao người có lòng nhân hậu mà không giúp nhau vượt qua bi kịch của cuộc sống! Qua ông giáo, ta hiểu cái nhìn cảm thông tin tưởng của Nam Cao đối với nhân cách đáng quý: dù đó là trí thức hay nông dân thì quan hệ giữa họ vẫn là tri kỉ, họ có thể kí thác những điều hệ trọng, thiêng liêng nhất đời mình.

Dàn ý Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ

A. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và truyện ngắn Lão Hạc

- Trích dẫn câu nói của ông giáo: “…”

- Khái quát nội dung câu nói: Quan điểm về cách nhìn nhận con người: Khi đánh giá con người chúng ta cần phải nhìn bằng sự cảm thông, khách quan nhất có thể.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Ý nghĩa câu nói

- Nhận xét trên là suy nghĩ của ông giáo khi vợ ông nói điều không tốt về lão Hạc.

- Ý nghĩa: Quan điểm về cách nhìn nhận đánh giá con người: Để có thể nhìn nhận, đánh giá một người thì ta cần phải hiểu thật kĩ về họ và nhìn bằng con mắt của sự cảm thông, trân trọng.

- Nhận xét này được chứng minh qua cái nhìn của các nhân vật về lão Hạc.

Luận điểm 2: Chứng minh

* Cái nhìn của ông giáo về lão Hạc

- Dù là người bạn thân nhất của lão, nhưng cũng có những lúc, ông giáo không thể hiểu hết được con người và hoàn cảnh của lão, vì vậy, chính ông cũng đã có những cái nhìn chưa đúng.

   + Khi lão Hạc băn khoăn chuyện bán chó, ông giáo đã nghĩ “Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế!” và cho rằng “lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi”. Lúc này, ông giáo chưa hề biết con chó ấy chính là kỉ vật cuối cùng của thằng con lão Hạc, là người bạn thân nhất và duy nhất luôn bầu bạn với lão trong suốt những năm qua. Cho đến khi biết được hết mọi chuyện, ông giáo mới thốt lên “Bây giờ thì tôi đã hiểu…”.

   + Khi lão Hạc gửi ông vườn và tiền làm ma, ông cũng thấy lão thật gàn dở, lo xa: “tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại”

   + Ngay cả khi nghe Binh Tư nói xấu về lão, ông giáo cũng tin và cho rằng “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?” và vội kết luận “Cuộc đời quả thật cứ ngày một thêm đáng buồn”

⇒ Chính ông giáo cũng đã có những suy nghĩ, kết luận sai khi đánh giá lão Hạc khi chưa tìm hiểu kĩ mọi chuyện

* Cách nhìn nhận của vợ ông giáo về lão Hạc

- Khi thấy lão gửi tiền gửi ruộng, thị cũng nhìn lão như một gã gàn dở, ngu ngốc, thậm chí mắng nhiếc lão “Cho lão chết”. Thị không hề hiểu gì về lão, lại thêm cái đói, cái khổ khiến thị trở nên ích kỉ, không thể có một chút thông cảm, xót thương nào cho tình cảnh của lão.

* Cách nhìn nhận của Binh Tư về lão Hạc

- Vốn là một người hiền lành, nhưng khi lão xin bả chó của Binh Tư, ngay lập tức gã đã bĩu môi khinh khỉnh và cho rằng lão “chả vừa đâu”. Binh Tư từ chính bản chất xấu xa của mình để đánh giá lão Hạc. Hắn nghĩ ai cùng đường cũng sẽ phải làm điều xấu như hắn.

⇒ Suy nghĩ của ông giáo là sự chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người của chính tác giả. Từ cách nhìn nhận, đánh giá một con người, cho đến lòng cảm thông, thương xót và thấu hiếu người nông dân, tất cả đã làm nên cảm hứng nhân đạo, nahan văn sâu sắc trong sự nghiệp văn học của Nam Cao.

C. Kết bài:

- Khẳng định lại ý nghĩa của lời nhận xét: Câu nói của ông giáo chính là quan điểm của tác giả về cách nhìn nhận con người trong xã hội.

- Liên hệ đến các biểu hiện khác trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn của Nam Cao.

Nguồn: vietjack