TỔNG HỢP KIẾN THỨC CƠ BẢN CẢNH NGÀY XUÂN
Gửi bởi: Thành Đạt 28 tháng 10 2020 lúc 16:48:05 | Được cập nhật: 5 giờ trước (22:25:19) Kiểu file: PDF | Lượt xem: 712 | Lượt Download: 7 | File size: 0.13867 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề cương ôn thi học kì 1 Văn 9 năm 2019-2020
- Đề cương ôn thi vào 10 môn Ngữ văn
- Đề cương ôn thi học kì 2 Văn 9
- Đề cương ôn tập học kì 1 Văn 9 năm 2018-2019
- Tuyển tập các đề nghị luận xã hội
- Bố cục với bộ đề nghị luận xã hội ôn thi HSG Văn 9
- 30 Đề giáo viên dạy giỏi môn văn
- Soạn bài Mây và Sóng Ngữ văn 9
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
TỔNG HỢP KIẾN THỨC CƠ BẢN CẢNH NGÀY XUÂN
(Trích "Truyện Kiều" của Nguyễn Du)
I. Tìm hiều chung
1. Vị trí đoạn trích
Vị trí: “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ tả cảnh ngày mùa xuân trong tiết Thanh minh và
cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều, trước đoạn
Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên,
lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt.
2. Kết cấu đoạn trích: theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
+ Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân.
+ Tám câu tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
+ Sáu câu cuối: cảnh chị em Kiều du xuân trở vể.
3. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật.
Giá trị nội dung của “Cảnh ngày xuân”: là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp,
trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt.
Giá trị nghệ thuật: sử dụng nhiều hình ảnh đắt giá, sáng tạo; nhiều từ láy miêu tả cảnh
vật và cũng là tâm trạng con người; bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
4. Giải nghĩa từ ngữ:
- Thanh minh: tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi
tảo mộ, tức là đi viếng và sửa sang lại phần mộ người thân.
- Đạp thanh: dẫm lên cỏ xanh.
- Tài tử giai nhân: trai tài, gái sắc.
- áo quần như nêm: nói người đi lại đông đúc, chật như nêm.
II. Phân tích đoạn trích
1. Bốn câu thơ đầu: Tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
- Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én
chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn trong sáng. Đồng thời,
nhà thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá nhưng “con én đưa thoi”, chín mươi
ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”.
- Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ
giản đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không gian
mùa xuân kháng đạt. ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương
thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi đưa vào bài thơ của mình, tác
giả đã rất sáng tạo. Câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh “cỏ thơm” (phương thảo)
thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh” thiên về màu sắc. Đó là màu xanh
nhạt pha với vàng chanh tươi tắn hợp với màu lam trong snág của nền trời buổi chiều
xuân làm thành gam nền cho bức tranh, trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê.
Bức tranh dung hoà những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới
của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên trước tạo bất ngờ sự mới mẻ, tinh khôi, thanh
khiết như kết tinh những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người hoạ sĩ vẽ
nên thơ nên hoa, bàn tay tạo hoá tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có
hồn, sống động.
- Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của
Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành
công trong bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con
người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên,
nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.
2. khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh (8 câu giữa)
- Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ Lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động
diễn ra cùng một lúc: Lễ tảo mộ, Hội đạp thanh.
- Không khí lễ hội được gợi tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
+ Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm rõ hơn tâm trạng
người đi hội.
+ Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi tả sự
đông vui tấp nập.
+ Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng của ngày hội.
- Thông qua buổi du xuân của chị em Thuý Kiều, tác giả khắc học hình ảnh một
truyền thống văn hoá lễ hội xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên
hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én,
chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật nghững nam thanh nữ
tú, những “tài tử giai nhân” tay trong tay dạo chơi, niềm vui lễ hội như bao trùm cả
nhân gian. Những so sánh rất giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự
đông vui.
- “Lễ là tảo mộ” - lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người thân; đốt vàng
vó, sắc tiền giá để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội là đạp thanh” - vui chơi
chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm
đến những sợi ta hồng của mai sau. “Lễ” là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền
thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước
của cuộc đời. Lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự giao hoà độc đáo. Chứng tỏ
nhà thơ rất yêu quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
3. Sáu câu thơ cuối: gợi tả khung cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp
cầu bắc ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.
- Bóng tịch dương đã chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về đây”, dòng nước uốn
quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người
cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn,
lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn con người như cũng chuyển điệu
cùng cảnh vật, bước chân người thơ thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển
động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn.
Tâm trạng con người có cái bâng khuâng xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả
linh cảm về việc gặp gỡ nấm mộ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng “phong tư
tài mạo tót vời”.
- Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh không chỉ biểu đạt
sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người, đặc biệt hai chữ “nao nao”
thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em
Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực
ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui
xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy
cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh
ngụ tình, tình và cảnh tương hợp.
*Lưu ý:
- Đoạn 4 câu đầu và 6 câu cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẽ nên bức
tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp. Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là
chính.
- Từ ngữ hình ảnh giàu chất tạo hình.
- Thiên nhiên được miêu tả trong những thời gian, thời điểm khác nhau.