Tinh thần nhân đạo trong văn học
Gửi bởi: 2019-11-14 20:11:03 | Được cập nhật: 2021-02-20 20:07:38 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 583 | Lượt Download: 4
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Tinh thần nhân đạo trong văn học
Từ xa xưa, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng yêu nước đã trở thành một đề tài lớn xuyên su ốt
các tác phẩm văn học. Có thể nói cùng với cảm hứng yêu nước, tinh thần nhân đạo là truyền
thống có tính muôn thuở của thi ca cũng như của các nhà văn. Chính vì thế nên dù vi ết theo
khuynh hướng hay trào lưu nào tinh thần nhân đạo vẫn thấm đậm trong từng tác phẩm. Và
khi nhận xét về tinh thần nhân đạo trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945, có ý ki ến cho r ằng:
Dù được sáng tác theo trào lưu lãng mãn hay hiện thực, những trang viết của các nhà văn đ ầy
tài năng và tâm huyết đều thắm đượm tinh thần nhân dạo sâu sắc. Điều đó thế hiện rõ trong
nhiều tác phẩm mà tiêu biểu là Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam, Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng và Lão Hạc của Nam Cao.
Nói đến tinh thần nhân đạo là nói đến mối quan hệ giữa con người với con ng ười, nh ững gì
vì con người, cho con người, cho sự tốt đẹp của bản thân mỗi con người, cho cộng đồng thế
giới loài người ... đều nằm trong phạm trù nhân đạo. Hai mặt cảm hứng lớn trong c ảm quan
nghệ thuật của tác giả là nhiệt tình ca ngợi và nhiệt tình phê phán. Tinh th ần nhân đ ạo, nhân
văn, nhân bản gắn liền với nhau.
Từ đó ta có thể khẳng địng tinh thần nhân đạo thắm đượm trong từng trang viết của các nhà
văn đầy tài năng và tâm huyết. Tinh thần nhân đạo được thế hiện ở rất nhiều khía cạnh khác
nhau với phong cách riêng của từng tác giả nhưng mục đích cuối cùng vẫn là vì và cho con
người, ở Thạch Lam, yếu tố lãng mạn và hiện thực kết hợp hài hòa và nhuần nh ị vì v ậy mà
truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa như một bài thơ trữ tình xinh xắn. Khác với Th ạch Lam, tác
phẩm Lão Hạc cũng như một số tác phẩm khác của Nam Cao đ ậm đà tính hi ện th ực. Và cũng
góp phần vào mảng đề tài to lớn này, Nguyên Hồng thể hiện qua từng trang hồi kỳ xúc đ ộng
về chính tuổi thơ cay đắng của mình. Dù là hiện thực hay lãng mạn song tất cả đều hướng về
con người, ca ngợi và bênh vực, đòi quyền sống cho họ.
Trước hết, tinh thần nhân đạo của tác giả bộc lộ thông qua những lời ca ngợi, nâng niu những
phẩm chất đáng quý của con người. Đó là tình cảm đẹp đẽ truyền thống của con người Việt
Nam, tình cha con, mẹ con, anh em, láng giềng. Dù sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến
thối nát và xấu xa đó, họ vẫn giữ được bản chất của mình.
Ai cũng có một người mẹ và trên đời này có ai yêu thương con hơn mẹ. Tình mẹ là n ỗi khao
khát của con trẻ, đấy chính là mạch cảm xúc chân thành của nhà văn khi hướng ngòi bút của
mình vào con người.
Cũng là một đứa con nhưng khốn khổ thay, bé Hồng trong chương hồi ký Trong lòng mẹ lại là
kết quả của một cuộc hôn nhân không tình yêu để rồi phải xa mẹ, sống trong sự ghẻ lạnh
của gia đình. Hồng sống trong nhớ nhung, khao khát thì mẹ Hồng, người đàn bà bất h ạnh đó
cũng luôn canh cánh lòng hình bóng của hai đứa con thân yêu sớm thiếu thốn tình cảm c ủa
người mẹ. Giữa những tai tiếng chê cười của họ hàng thì mẹ H ồng là ng ười v ợ không th ủy
chung, chưa đoạn tang chồng mà chửa đẻ với người khác Trong xã hội đương thời, đó là
trọng tội mà “cạo đầu bôi vôi” là một cực hình đau đớn nhất. Nhưng có ai hiểu được nỗi lòng
người đàn bà đó, tiếng gọi của tình yêu và trái tim chưa một lần đ ược yêu và luôn thôi thúc
khát khao một tình yêu đích thực. Từ giã con song bà luôn nghỉ tới con trong thương nhớ, day
dứt khôn nguôi. Và có ở trong địa VỊ của bà ta mới cảm nhận hết tình yêu thương con của bà
nó sâu sắc và thấm thìa tới tận trái tim của người đọc, để cứ một lần gi ở lại trang truy ện là
một lần ta thổn thức yêu thương, chua xót.
Không những tình cảm mẹ con sâu nặng mà tình cảm cha con cũng được các tác gi ả ca ng ợi
và thể hiện sâu đậm trong tác phẩm của mình.
Hình ảnh lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một điển hình tiêu bi ểu. M ặc
dù đã sớm mất đi người vợ hiền thân yêu nhất, nhưng lão Hạc không đi b ước n ữa vì s ợ con
lão phải khổ, sợ anh phái sống trong cảnh “mẹ ghẻ con chồng”. Có thế nói trong thâm tâm
lão, hình ảnh anh con trai, đứa con độc nhất là nguồn vui, là lẽ s ống mà lão dành cho nó c ả
tình cảm của mình. Lão Hạc đau đớn và day dứt khi không có ti ền c ưới v ợ cho con, còn n ỗi
khổ nào hơn cha nhìn con đau khổ tuyệt vọng mà cũng chẳng giúp được gì ngoài những lời
động viên nhẹ nhàng như nhũng khúc tâm can của người bố già nua đau kh ổ. Tấm lòng ng ười
cha của lão Hạc được khắc sâu và thể hiện cảm động nhất qua đoạn truy ện t ả cái ch ết c ủa
lão. Lão chết là vì con và cho con. Thật đáng thương bao nhiêu trước lời nói của lão: tiêu một
xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Lão đã chết, để lại cho con tất cả tài
sản và cao quý hơn vẫn là tấm lòng người cha không lúc nào không nghĩ tới con.
Bên cạnh việc ca ngợi tình cảm mẹ con, cha con, các nhà văn cũng r ất am hi ểu và xúc đ ộng
trước tình hiếu thảo của những con người dù là con rất bé. Nghĩ về trẻ thơ với tấm lòng con
người, hay là nghĩ về chính cuộc đời thơ trẻ của mình mà Nguyên Hồng đã khắc họa rất
thành công tình cảm đối với mẹ của bé Hồng trong chương Trong lòng mẹ. sống giữa những
lời chê bai, khích bác của bà cô nhưng bé Hồng vẫn giữ trọn trong tim mình hình bóng m ẹ
kính yêu, mặc dù cho mọi người gièm pha chê trách. Tấm lòng của người con khi nhắc tới mẹ
là nỗi đau, là vết thương lòng để cười dài trong tiếng khóc. Cười mà lại ra nước m ắt ư? Hay
đó chỉ là tiếng cười đau đớn đập vào mặt bà cô vô lương tâm, đập vào nh ững c ổ t ục đã làm
cho mẹ Hồng khổ. Còn giọt nước mắt, những giọt máu đỏ tươi trào ra từ trái tim non nớt sớm
bị tổn thương là nỗi đau thương cho cuộc đời mẹ. Lúc ấy trái tim bé H ồng nh ư th ốt lên, gào
lên tuyệt vọng: Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy
tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát v ụn m ới thôi.
Lòng yêu thương như giúp cho bé Hồng có một sức mạnh vô biên, hay sức mạnh đó là s ức
mạnh của tình con trẻ.
Ngoài những tình cảm gia đình đó, còn những mối quan hệ xã hội mà tác giả cũng h ết l ời ca
tụng,
nâng
niu.
Mặc dù mới chỉ là cậu bé Sơn trong Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam đã sớm có tình thương
ấm áp thông qua việc làm rất có ý nghĩa: cho Hiên cái áo bông cũ. Đó là hành đ ộng r ất bình
thường, một tình thương bộc phát của trẻ thơ không suy tính mà có chăng chỉ là sự mách bảo
của trái tim, thấy bạn không có áo thì cho và trong lòng cảm thấy ấm áp VUI VUI. S ơn VUI,
VUI vì mình vừa làm một việc tốt và thấy cái Hiên mặc áo bông thì S ơn th ấy mình cũng ấm
hơn. Đó là hơi ấm của tình người sưởi ấm cho cả một không gian lạnh se cắt khi gió lạnh
đầu mùa đông tràn về mà Thạch Lam đã phát hiện, miêu tả sinh động trong truyện của mình.
Đó là tình cảm láng giềng khi tối lửa tắt đèn có nhau của lão Hạc đ ối v ới ông giáo trong tác
phẩm Lão Hạc của Nam Cao. Trong lúc xã hội rối ren mà mối quan hệ giữa con người với
con người là mối quan hệ giữa người và chó sói thì lão H ạc vần tin m ột ni ềm tin b ất di ệt vào
vào ông giáo. Chuyện gì lão cũng kể với ông giáo, cũng hỏi ông giáo và ông đã th ực s ự là ch ỗ
dựa tin tưởng nhất trong cuộc đời lão.
Ngợi ca và trân trọng, kích phục và thương yêu, các tác giả như Nam Cao, Nguyên Hồng,
Thạch Lam đã ghi lại hết sức tinh tế phẩm chất tốt đẹp của người dân, từ một cậu bé Sơn vô
tư đến một bé Hồng bất hạnh và cao hơn hết là một hình ảnh của một lão H ạc th ật thà, chân
chất, yêu thương.
Cùng với việc ngợi ca phẩm chất của người dân và trẻ thơ, các tác giả còn t ập trung h ướng
ngòi bút của mình lên án xã hội đương thời, đấu tranh đòi quyền sống cho con người. Càng
thương cảm cho cuộc đời của mỗi nhân vật, các tác giả càng căm phần những thế lực làm
khổ cuộc đời họ.
Qua hai tác phẩm Gió lạnh đầu mùa và Lão Hạc, nhà văn Nam Cao và Thạch Lam đã gián tiếp
lên xã hội với bọn quan lại sâu dân mọt nước đương thời.
Vì sao cả cuộc đời đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào mà m ẹ Hiên v ẫn kh ổ, mà
lão Hạc vẫn phái chết. Đó là câu hỏi bức thiết, là lời tố cáo đanh thép và mạnh mẽ quất thẳng
vào bộ mặt của xã hội đương thời. Họi làm mà không có ăn vì đâu ư? Vì b ọn quan l ại tham
lam bòn rút, vì thuế má ngặt nghèo của lão Hạc là trường hợp tự bức tử. Nếu lão còn s ống thì
sống mòn, chết mòn, chết từ từ, chết dần dần trong bàn tay gớm ghiếc của xã hội đã tước đi
quyền sống của lão và của bao nhiêu người khác. Hai cái gông phong ki ến và th ực dân đã
đánh gục biết bao nhiêu người như lão Hạc, như mẹ cái Hiên, chết đói, chết rét, cái chết mà
lẽ ra phải dành cho bọn quan lại và địa chủ sâu dân mọt nước. Khổ vì nghèo, vì đói, vì quan
đã là nhục nhã lắm rồi nhưng chưa hết, sống dưới xã hội mà th ực dân n ửa phong ki ến đ ương
thời, người dân, mà đặc biệt là lão Hạc, mẹ Hồng còn khổ hơn vì hủ tục phong kiến. Nam
Cao và Nguyên Hồng đã tập trung phản ánh nạn nhân của nó, có thể nói mỗi số phận như cô
gái người yêu anh con trai của lão Hạc rồi mẹ bé Hồng là lời kêu c ứu th ất thanh văng v ẳng
trong trái tim các tác giả. Cũng chỉ vì hú tục trong hôn nhân, cưới xin mà anh con trai lão Hạc
không lấy được người mình yêu. Nhà gái thách cưới cao quá, gia đình anh làm sao lo đ ủ, r ồi
cuối cùng mỗi người một ngả. Cô gái người yêu anh con trai lão Hạc lấy m ột ng ười ch ồng
giàu sang mà mình không yêu rồi số phận đưa đẩy ra sao? Đó là số phận, là tương lai mù m ịt
của cô hay chính là mẹ bé Hồng sau này trong tác phẩm Những ngày th ơ ấu. Cu ộc hôn nhân
không tình yêu để rồi tất cả cùng đau khổ, bố bé Hồng chết, mẹ bé Hồng vì “cha mẹ đ ặt đâu
con ngồi đấy” nên đành chôn vùi tuổi thanh xuân mà sau này “xuất giá tòng phu, phu t ử tòng
tử” phải khiến bà phải sống tha hương, cầu thực, bèo dạt mây trôi, tương lai r ồi cũng ch ỉ là
một vũng bùn đen tối. Nguyên Hồng đã thể hiện tình cảm gay gắt của mình thông qua hình
ảnh bé Hồng muốn tiêu diệt những hủ tục đã đày đọa mẹ mình.
Nói tóm lại văn xuôi giai đoạn 1930-1945 mà đặc biệt là ba tác phẩm Gió lạnh đầu mùa,
Những ngày thơ ấu, Lão Hạc cho ta thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của các nhà văn. Dù
là ở các trào lưu khác nhau, hiện thực hay lãng mạn, họ đều thể hiện tinh thần nhân đạo bao
la với mọi kiếp người: là em bé khổ đau, là cụ già bất hạnh, là tình người ấm áp trong cơn gió
lạnh đầu mùa. Nhưng tinh thần nhân đạo của ba tác phẩm vẫn chưa đạt đến chủ nghĩa nhân
đạo cách mạng. Bởi các nhà văn chỉ thấy các nhân vật khổ mà thương xót chứ chưa tìm ra
được con đường giải phóng họ. vì vậy mà kết thúc câu chuyện dù lãng mạn hay hiện thực
vẫn có những chỗ bế tắc, Hồng vẫn khổ, lão Hạc phải chết v.v... song đó là tiếng kêu đòi
quyền sống cho con người mà ta rất kính trọng nâng niu ở các nhà văn. Hạn chế cũng là hạn
chế trong tư tưởng tác giả và lịch sử một thời đại.
Cảm hứng nhân đạo đã, đang và sẽ là cảm hứng cho tất cả các trào lưu văn h ọc ngh ệ thu ật v ị
nhân sinh, đó là tiếng lòng của một nhà thơ sau này và mãi mãi về sau:
Có
Người
Tố Hữu
gì
yêu
đẹp
nhau
trên
sống
đời
để
hơn
yêu
thế
nhau.