Đấu tranh về văn học của Lỗ Tấn
Gửi bởi: 2019-11-21 20:54:00 | Được cập nhật: 2021-02-20 21:27:50 Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 313 | Lượt Download: 0
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Đấu tranh về văn học của Lỗ Tấn
Sau vận động "Ngũ tứ", trên văn đàn Trung Quốc, Lỗ Tấn thật giống như một vị
tướng quân, thanh gươm yên ngựa, tả đột hữu xung, hễ có một đám giặc c ỏ nào
là một mình ra trận, bách chiến bách thắng.
Trước tiên là sự tranh luận giữa bạch thoại và văn ngôn. Bên phe ch ủ tr ương
bạch thoại có nhiều người, không phải một mình Lỗ Tấn, nhưng tranh đến cùng
là Lỗ Tấn. Đáng kể là mấy lần tranh luận với Chương Sĩ Chiêu. Trong Giáp dần
tạp chí, Chương Sĩ Chiêu cho rằng văn ngôn gọn, bạch thoại phải dùng nhiều
chữ, lòng thòng. Như câu "nhị đào sát tam sĩ", nói bằng bạch thoại phải nói là
"lưỡng cá đào tử sát liễu tam cá độc thư nhân". Lỗ Tấn căn cứ sách Yến tử xuân
thu, nói chữ sĩ đó là dũng sĩ, võ sĩ, dịch ra độc thư nhân là ng ười đ ọc sách, ng ười
học trò, sai nghĩa. Một người đã dốt sách xưa, không thể bênh vực cho văn ngôn
được. Lần khác, Chương Sĩ Chiêu dùng cái thành ngữ "m ỗi h ạ d ủ hu ống" trong
sách Trang Tử lầm ra là "mỗi huống dủ hạ". Lỗ Tấn chụp lấy, nói câu ấy xưa
nay có nhiều người lầm lắm rồi, không ngờ người chủ trương văn ngôn nh ư
Chương Sĩ Chiêu mà cũng lầm. "Mỗi hạ dủ huống" nghĩa là hễ xuống chừng
nào càng lắm chừng nấy, mà nói "mỗi huống dủ hạ" thì thành ra không có nghĩa
gì hết; bất thông đến thế, sao dám đứng ra duy trì văn ngôn? V ả, Ch ương Sĩ
Chiêu là tổng trưởng Bộ Giáo dục bấy giờ, bị mấy vố nặng ấy làm cho phe văn
ngôn nhụt mất.
Một bọn khác cho ra tạp chí học hoành, chủ trương văn ngôn, chống bạch tho ại.
Mới ra số đầu, Lỗ Tấn viết một bài chỉ ra bảy chỗ dùng chữ bất thông hay là sai
ngữ pháp, bọn ấy làm thinh không cãi được. Ấy là những việc ở năm 1925 về
trước. Đến năm 1934, bạch thoại đã thông hành lâu rồi, mà b ọn th ống tr ị T ưởng
Giới Thạch còn đề xướng văn ngôn. Một người ký tên là Uông Mậu Tổ l ắp l ại
cái thuyết gọn và lòng thòng của Chương Sĩ Chiêu, c ử l ệ r ằng: Nh ư b ạch tho ại
nói "giá nhất cá học sinh hoặc thị ná nhất cá học sinh" thì văn ngôn ch ỉ nói "th ử
sinh hoặc bỉ sinh" là đủ rồi. Nhưng, theo Lỗ Tấn, "giá nhất cá h ọc sinh ho ặc th ị
ná nhất cá học sinh" chỉ nghĩa rành mạch là người học sinh này ho ặc ng ười h ọc
sinh kia; còn "thử sinh hoặc bỉ sinh", ít nữa có thể có hai nghĩa: 1, sinh viên này
hoặc sinh viên kia; 2, đời sống này hoặc đời sống kia, là đ ời s ống hi ện t ại ho ặc
đời sống tương lai. Nắm lấy đó, Lỗ Tấn phản công lại, nói rằng: "Cứ theo câu
lệ của Uông Mậu Tổ đưa ra đủ chứng minh rằng văn ngôn hàm hồ không rõ
nghĩa, không còn xài được nữa".
Đến sự tranh luận về phiên dịch. Cuộc tranh luận này cãi nhau nhiều và dai
dẳng lắm, cuối cùng Lỗ Tấn vẫn cứ đánh vào chỗ yếu của bên đ ịch mà th ủ
thắng. Lỗ Tấn thì chủ trương "trực địch", nguyên văn thế nào thì thông ngôn ra
thế ấy, không thêm không bớt, không vụ lấy xuôi lời mà làm sai ý tác giả.
Nhưng bên địch, bọn Lương Thực thu, Triệu Cảnh Thâm thì chủ tr ương "thu ận
dịch", miễn cho xuôi lời dễ hiểu, dù có sai nguyên văn chút đỉnh cũng không sao.
Do đó mà có câu chuyện buồn cười dưới đây làm cho "ông th ầy phiên d ịch"
Triệu
Cảnh
Thâm
cay
cú
đến
khó
chịu.
Trong một bài văn của Triệu Cảnh Thâm dịch chữ Voie lactée là "Ngưu nhũ lộ"
(đường sữa bò). Lỗ Tấn vớ ngay lấy, cười tủm tỉm: "Đó giống như là tr ực dịch,
mà thực ra thì không phải!" Rồi kể một chuyện thần thoại Hy L ạp: V ị đ ại th ần
Zéus là thần ưa ve gái. Một lần ngự xuống trần gian tròng trẹo với một cô nào
đó sinh được một đứa con trai. Bà Zéus là một nữ thần tổ ghen, biết được
chuyện ấy, liền bắt đứa bé ấy về trên trời, chờ dịp giết chết. Nh ưng đ ứa bé
ngây thơ, không biết cái mưu độc ác ấy, có một lần hắn chạm phải cái đầu vú
bà nữ thần, bèn ngậm lấy mà bú. Bà Zéus giật mình, xô h ắn m ột cái, r ơi xu ống
trần gian, chẳng những không chết mà về sau lại thành anh hùng. Nhưng, nh ững
tia sữa ở vú bà Zéus vì đó phun ra túa lụa đầy tr ời, thành ra sông Ngân Hà, t ức là
"đường sữa bò", à, không phải - Lỗ Tấn nói - thực ra là "đường sữa th ần". R ồi
nói thêm: "Có điều, ở người Tây, bất kỳ sữa gì cũng gọi là lait(2) c ả, chúng ta
thường thấy chữ ấy trên hộp sữa bò, có khi không khỏi dịch lầm là sữa bò, sự
ấy cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Ác là lại còn thêm một câu này: "Tôi kể câu chuyện trên đó ch ẳng qua đ ể góp
thêm chút ít tài liệu nhàn đàm cho mọi người và nhân đó biết thêm chút ít th ần
thoại Hy Lạp mà thôi, chứ đối với cái chủ trương "thà xuôi mà không đúng,
không tha đúng mà không xuôi" của Triệu tiên sinh không có tổn hại mảy may
nào
cả".
Những văn dịch ở Trung Quốc gần nay, về văn nghệ, tôi thấy đều theo lối tr ực
dịch của Lỗ Tấn cả. Đem đối chiếu một bổn dịch tiểu thuyết của Gorki bằng
tiếng Trung Quốc với tiếng Pháp, in hệt như nhau từng chữ, từng câu, ch ỉ có
trực dịch thì mới được như vậy, thì ra chẳng những Trung Quốc mà ng ười Pháp
cũng
trực
dịch.
Hai điều trên đó chỉ là đấu tranh về hình thức văn h ọc; d ưới đây m ới là đ ấu
tranh về nội dung.
Sau khi Tả Dực tác gia liên minh thành lập, đề xướng văn h ọc vô s ản ở năm
1930, các thứ văn học phản động ở Trung Quốc mọc ra như nấm, tàn lớp này,
lên lớp khác, đều bị Lỗ Tấn quét dọn sạch cả. Điều ấy có thể kể là một công
trạng
rất
lớn
của
Lỗ
Tấn.
Trước tiên, nhân phê bình mấy bản dịch lý luận văn nghệ vô sản của Lỗ Tấn,
giáo thụ đại học Lương Thực Thu đưa ra cái thuyết văn học không có giai cấp
tánh. Lương Thực Thu vẫn nhìn nhận rằng trong xã hội có giai cấp t ư b ản và
giai cấp vô sản, nhưng lại quả quyết rằng văn học thì chỉ có một, đem sự phân
chia giai cấp buộc cho văn học là sai lầm. Bởi vì m ột nhà t ư b ản v ới m ột ng ười
lao động tuy có chỗ khác nhau nhưng có chỗ giống nhau: Hai đ ằng cùng có m ột
"tánh người" là như yêu, thương, mừng, giận, ghét, mà văn học là đ ể bi ểu hi ện
cái
"tánh
người"
ấy.
Lỗ Tấn bác cái thuyết ấy, đại khái nói rằng văn học muốn biểu hiện "tánh
người" thì phải thông qua "người", nếu không thông qua "người" thì không sao
biểu hiện "tánh" được. Đã thông qua người mà người còn ở trong xã h ội có giai
cấp, thì tất nhiên không vứt bỏ đi đâu được cái giai cấp tánh mà người thuộc về.
Đó là cái lẽ tất nhiên như thế, không cần phải đem giai cấp tánh "bu ộc" cho văn
học. Cố nhiên là ai cũng có yêu, thương, mừng, giận, ghét, nhưng những cái đó
của mỗi giai cấp khác nhau: Lão Tiêu Đại không yêu cô Lâm ti ểu th ư(3), ng ười
ăn mày không có cái buồn rầu của nhà buôn to vỡ nợ, ông triệu phú nước Mỹ
không thấy cái khổ của mụ già vạch tìm mẩu bánh vụn trong đ ống rác ở đ ường
phố Bắc Kinh, anh cố nông không có hứng thú thưởng hoa thủy tiên ngày tết...
Cho nên, để được biểu hiện cái tánh người của giai cấp vô s ản, giai c ấp vô s ản
phải
có
văn
học
vô
sản
của
họ.
Cái thuyết của Lương Thực Thu còn có nhiều điểm nữa, bài bác luận của L ỗ
Tấn khá dài, cứ đánh đổ từng điểm một, trên đây chỉ lược thuật một đi ểm tr ọng
yếu nhất mà thôi.
Trong khi đàn áp văn học vô sản, cấm sách báo, giết hại các nhà văn t ả dực, b ọn
thống trị tập hợp với một bọn bồi bút, rồi có kẻ đ ề x ướng th ứ văn h ọc dân t ộc.
ý nghĩa bốn chữ ấy theo Lỗ Tấn giải thích là: Họ nghiên cứu màu da mặt c ủa
các giống người, rồi quyết định rằng hễ giống người cùng chung một màu da
mặt thì phải đi rập với nhau một đường hành vi, cho nên giai cấp vô sản da vàng
không nên đấu tranh với giai cấp hữu sản da vàng mà phải đấu tranh v ới giai
cấp vô sản da trắng. Gọi hằng "dân tộc" là vậy đó, văn học của họ nhằm theo
con
đường
ấy
mà
phát
triển.
Có một người trong phái văn học dân tộc ký tên là Thanh Cồ, viết một bài trên
báo, đầu đề là "Một trang chiến sử chinh Nga của nước ta", đại khái nói rằng:
"Thành Cát Tư Hàn đời Nguyên, dấy từ Mông Cổ, vào làm ch ủ Trung Qu ốc.
Đến triều vua Thái Tôn năm thứ bảy, lại khiến Tốc Bất Đài theo các Vương Bạt
Đô, hoàng tử Quý Do đánh Tây vực. Năm thứ mười bèn cử đại binh đánh Nga,
hãm thành Mạc Tư Khoa. Con trưởng vua Thái Tổ là Truật Xích lên ngôi kh ắc
hàn(4) tại đó. Thật là một việc mà lịch sử từ xưa chưa hề có. Vả, các vị anh chủ
sáng nghiệp đời xưa, dù có mở rộng bờ cõi đến đâu đi nữa cũng chưa hề có ai
xâm nhập đến đất châu Âu, rắp hỗn nhất cả châu á châu Âu như vậy. Vậy mà
chẳng cho là một trang chiến sử vẻ vang của nước ta được ư?...".
Nói gọn, cái điều dại dột của bài luận ấy là ở hai chữ "n ước ta".
Một dịp cho Lỗ Tấn đập nát cái mặt nạ văn học dân tộc. Ông viết r ằng: "Ch ỉ có
ông Thanh Cồ là người Mông Cổ thì mới nói như vậy được. N ếu không thì,
Thành Cát Tư Hàn vào làm chủ Trung Quốc, Truật Xích lên ngôi khắc hàn tại
Mạc Tư Khoa, bấy giờ cái cảnh ngộ hai nước Trung Nga chúng ta giống nhau,
đều là bị người Mông Cổ chinh phục. Tại sao người Trung Quốc đời nay l ại
nhận bướng người Mông Cổ là ông cha mình, vênh mặt lên kiêu ng ạo v ới giống
người Slavơ là kẻ đồng chịu áp bách với mình?".
Lúc bấy giờ, năm 1931, Nhật Bản bắt đầu đánh Đông B ắc, toan dùng Trung
Quốc làm bàn đạp để đánh Liên Xô, mà Tưởng Giới Thạch ra lệnh "bất đề
kháng", bị nghi là đồng mưu với Nhật, toan theo Nhật để cùng tiêu di ệt C ộng
sản, cho nên Lỗ Tấn viết nốt: "Hỡi ôi! Nga đỏ chưa đi đánh mà cái m ặt ng ốc đã
lòi ra, thật không phải là một trang chiến sử vẻ vang của nước ta vậy". "Cái mặt
ngốc" đó chẳng những chỉ người viết bài là Thanh Cồ mà cũng chỉ cả phe văn
học dân tộc hay là chỉ đến cả Tưởng Giới Thạch nữa.
Thế rồi cái lớp tuồng văn học dân tộc hạ màn.
Nhưng mà chưa hết đâu. Tiếp đó còn xuất hiện cái gọi bằng "lo ại ng ười th ứ
ba", đề xướng thứ văn học của loại người thứ ba. Loại thứ ba nghĩa là: h ọ nh ận
rằng giới văn học hiện có hai loại người, một là loại người tả dực, m ột là lo ại
người hữu dực, nhưng họ không phải tả mà cũng không phải hữu, cho nên h ọ là
người thuộc về loại thứ ba, vượt ra bên ngoài tả hay hữu. Thứ văn h ọc này,
cũng theo Lỗ Tấn giải thích: "Họ cho rằng văn học là vĩnh cửu, hiện tượng
chính trị là tạm thời, cho nên văn học không thể dính dấp với chính trị, hễ dính
dấp thì mất cái vĩnh cửu tánh của nó, Trung Quốc từ đó sẽ không có tác ph ẩm vĩ
đại".
Nhưng mà đã lâu, "loại người thứ ba vẫn không có tác phẩm ra hồn, chứ đừng
nói vĩ đại. Họ đổ tại nhà phê bình tả dực không hi ểu văn h ọc, phê bình c ộc c ằn
mà không đúng, đụng ai cũng mắng là "chó săn của nhà tư bản", nên h ọ ph ải
"gác
bút".
Lỗ Tấn nói: "Thực ra, cái nguyên nhân "loại người thứ ba" gác bút, không phải
tại tả dực phê bình cộc cằn, mà tại họ không làm nên "loại ng ười th ứ ba" đ ược.
Hễ không làm nên "loại người thứ ba" được thì cũng không có được ngọn bút
thứ ba, chứ chưa nói đến gác với chẳng gác.
"Sống ở trong xã hội có giai cấp mà muốn làm nhà văn siêu giai cấp, sống ở thời
đại chiến đấu mà muốn lìa khỏi chiến đấu, sống ở hiện tại mà muốn vi ết tác
phẩm dành cho tương lai, người như thế là một cái huyễn ảo do tâm tạo, chứ
không có thể có trong thế giới hiện thực này được".
Cuối cùng Lỗ Tấn tỏ ý rằng tuy họ xưng mình là "loại ng ười th ứ ba" nh ưng h ọ
không thể vượt khỏi giai cấp, không thể lìa khỏi chiến đấu, không thể nhảy ra
khỏi hiện tại, thì tác phẩm của họ cũng phải thế. Nếu họ không tự dối mình,
không treo lên cái chiêu bài giả mạo thì họ hãy ráng sức mà sáng tác đi".
Đối với thứ văn học này, hình như Lỗ Tấn không công kích kịch liệt lắm như
đối với thứ văn học dân tộc, hình như muốn khuyên họ quay đầu lại với hiện
thực, nhưng rốt lại, "loại người thứ ba" vẫn tiêu diệt, văn h ọc c ủa h ọ cũng tiêu
diệt
theo.
Còn một thứ văn học nữa gọi là văn học nhàn thích, cũng xuất hiện cùng m ột
thời đó. Người chủ trương thứ văn học này là Lâm Ngữ Đường, b ạn v ới L ỗ
Tấn, nhưng nhiều lần chỉ trích cái chủ trương ấy, Lỗ Tấn không hề nể mếch
lòng
bạn.
Lâm Ngữ Đường ra hai cái tạp chí vào khoảng 1933 - 1936, tr ước là Lu ận ng ữ,
sau là Nhân gian thế, đề xướng lối văn "u-mua"(5) và l ối văn "ti ểu ph ẩm"(6)
của người Minh - Thanh, lấy "nhàn thích" làm tôn chỉ - nhà thích có ý là di
dưỡng tánh tình, tánh tình của tác giả cũng của độc giả nữa.
Lỗ Tấn nói: "Những cái gì của ông Ngữ Đường đề xướng ra, tôi thường hay
phản đối... Bây giờ đây là lối văn u-mua chỉ có thứ dân ưa m ở h ội nghị bàn
tròn(5) mới chơi được, chứ ở Trung Quốc không có, cả đến cái chữ để dịch nó
cũng không có". Theo Lỗ Tấn, người Trung Quốc không sở trường lối văn umua, nếu miễn cưỡng bắt chước, rốt lại chỉ biến thành "bông phèng". Ông có
dẫn lời Ngữ Đường: "Làm người phải đứng đắn, không nên đi vào con đường
bất chính... Nhưng làm văn không giống làm người, phải u-mua, phải đùa đùa
cười cười, phải khoái hoạt...". Đùa đùa cười cười là bông phèng ch ứ gì? Mà
bông
phèng
là
làm
hề,
chứ
đâu
có
phải
làm
văn!
Huống chi, trong khi Lâm Ngữ Đường đề xướng u-mua đó, Nhật Bản đánh
chiếm Đông Tam tỉnh, Du Quan thất thủ, Nhiệt Hà nguy ngập, lại thêm Hoàng
Hà vỡ đê, nhân dân nheo nhóc, nỡ lòng nào ngồi yên mà đùa đùa c ười c ười? L ỗ
Tấn kéo Ngữ Đường trở về với hiện thực: "Hiện lúc này là lúc không có th ể umua được. Chính tạp chí Luận ngữ có tiền mà cũng không u-mua được, còn
mong gì những người ở mấy miền đạn trái phá đầy trời, nước lụt tràn đất mà
lại
u-mua
được?".
Trong một bài tạp văn viết tháng tư năm 1934, Lỗ Tấn có nói: "Năm ngoái là
năm u-mua gặp vận đỏ... không ngờ năm nay nó đảo vận, hết thảy tội ác đều đổ
về nó...". Đó là cái tin cáo phó cho lối văn u-mua.
Nói đến lối văn tiểu phẩm. Lâm Ngữ Đường cho rằng văn tiểu phẩm có cái đ ặc
sắc là "tả tính linh". Theo ý Lỗ Tấn, có một số người tả được tính linh th ật,
nhưng cái đó không có gì là đặc sắc. Bởi hoàn cảnh đương thời và sinh ho ạt c ủa
tác giả, họ chỉ có ý tứ như thế thì họ viết ra như thế. Nhưng không phải h ết
thảy văn tiểu phẩm đều "nhàn thích", có những tác giả khi gặp nguy nan cũng
pha giọng cảm thương phản khích. Nhưng những sách về tiểu phẩm ấy tr ải qua
nhiều lần "Văn tự ngục"(6) đời Mãn Thanh, đều đã bị đốt, bị hủy bản, cho nên
những văn tiểu phẩm còn lại đến ngày nay mà chúng ta thấy ch ỉ là th ứ tính linh
siêu hiện thực, "đi nửa lừng trời". Những tác gia ti ểu ph ẩm ấy, L ỗ T ấn nói, lúc
còn có nước là cao nhân, lúc nước mất rồi cũng không mất chi làm dật sĩ. "Sĩ"
thì trổi hơn thường dân, "dật" thì trốn khỏi trách nhiệm: Hiện giờ người ta đ ặc
biệt đề cao tiểu phẩm Minh - Thanh, thực ra là có lý lắm, không lấy gì làm lạ.
Câu nói của Lỗ Tấn vừa mới thuật lại đó nghe như lơ lửng mà sâu sắc l ắm.
Sống ở một nước đang nguy khốn như thế, một thời đại c ạnh tranh kịch li ệt
như thế, mà chỉ "tả tính linh", chuộng "nhàn thích", đặt mình ra khỏi cuộc đời,
chẳng phải trốn trách nhiệm là gì? Ba chữ "có lý lắm", ý muốn nói Lâm Ng ữ
Đường vì trốn trách nhiệm nên đề xướng tiểu phẩm Minh - Thanh.
Tiếp đó, Lỗ Tấn nói tiên tri một câu: "Nhưng cái mộng làm cao nhân dật sĩ
không được lâu dài đâu!". Quả nhiên trong năm 1936 thì "Nhân gian th ế" đình
bản, Lâm Ngữ Đường đi sang Mỹ làm giảng sư ở một trường đại học.
Ngoài sự đấu tranh về văn học, Lỗ Tấn còn đấu tranh về nghệ thuật n ữa. Trong
những tập tạp văn của ông có nhiều bài nói về hội họa, v ề kh ắc g ỗ. Nh ất là v ề
khắc gỗ, ông chú ý đặc biệt, săn sóc đặc biệt. Trong L ỗ T ấn th ư gi ản có m ột s ố
đông nghệ sĩ khắc gỗ thư từ đi lại với ông. Có thể nói, Lỗ Tấn là người phục
hưng cái bộ môn nghệ thuật này ở Trung Quốc về cận đại. Chỉ vì tôi dốt nghệ
thuật, cho nên trong bài này tôi không dám bình luận đến.