Bài viết số 7 Ngữ Văn 9
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
BÀI VIẾT SỐ 7 - NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
(Một số bài làm tham khảo)
Đề 1. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ thân thuộc và
chứa chan tình nghĩa. Bởi những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những con người ruột
thịt. Với Bằng Việt kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm thân thiết lắm
nên mới khơi nguồn dòng cảm xúc nồng ấm để sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: bài
thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ chúng
ta vẫn được sưởi chung với nhà thơ hơi lửa của tình người thật gần gũi ân nghĩa, thật
cao đẹp và thiêng liêng. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta
cảm nhận thấm thìa từng cung bậc tâm trạng. Ngỡ như ta đang nhóm bếp lửa vậy lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà xưa là lửa
của trăm nhà ngày nay.
Tám câu thơ đầu là kỉ niệm mới nhen lúc đứa cháu bốn tuổi:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa...
Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ thương và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm
trong khung cảnh biết mấy nắng mưa. Vậy là kỉ niệm đã sông dậy từ tình cảm cháu
nhớ thương bà và cuộc sông của hai bà cháu đầy khó khăn gian khổ:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Gia cảnh như thế nên tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà sao tránh được
những cơ cực xót đau. Bao nhiêu kỉ niệm xa xưa được nhớ lại.
Trong đó có một ấn tượng nhất, nổi lên lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về
khói bếp khói từ một bếp lửa của nhà nghèo.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ...
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay...
Mùi khói, rồi lại khói hun... nhà thơ đã chọn một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu
tả chân thật cuộc sông tuổi thơ vừa thể hiện những tình cảm da diết bâng khuâng xót
xa thương mến. Nghĩ lại bây giờ sông mũi còn cay nhấn lại dòng kỉ niệm xoáy sâu
trong tiềm thức, lay mạnh cả tâm hồn và thể xác con người, dường như cả người đọc
cũng cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ
ở những chi tiết ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà
thơ vừa mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc xanh... Mà đã đấy ắp
những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Đoạn thơ tiếp theo:
1
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
(...)
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhỏ thổi hồng lên kỉ niệm tuổi thiếu niên
khi quê hương đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ
thỉ như giọng kể trong chuyện cổ tích, có thời gian không gian. Có sự việc nhân vật
cụ thể tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa, con số không lớn nhưng ngày tháng cứ
kéo dài ròng rã, nặng nề. Bởi vì những ngày ở Huế ấy cuộc sống gia đình thật hoang
vắng, quạnh hiu. Bố mẹ bận công tác xa không về. Chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên
nhau nhóm lửa mỗi sáng mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. Nếu trong kỉ niệm hồi bôn
tuổi - ở phần trên - ấn tượng đậm nhất của cháu là mùi khói thì đến đây ấn tượng là
tiếng tu hú kêu. Trong mười câu thơ mà có tới năm lần âm vang tiếng tu hú. Lúc mơ
hồ vãng vẳng từ những cánh đồng xa, lúc gần gũi sao mà tha thiết thế, tiếng tu hú như
than thở sẻ chia. Có lúc nó gióng giả, dồn dập kêu kêu hoài. Trong cảnh sông đơn côi
chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh. Tiếng tu hú phải chăng là tiếng
đồng vọng của đất trời, để an ủi kiếp người đau khổ? Đưa tiếng tu hú - một âm thanh
rất đồng nội ấy - đã cho thấy thi sĩ Bằng Việt quả là một hồn thơ gắn bó sâu nặng với
quê hương. Trong các cung bậc khác nhau của tiếng tu hú, nỗi nhớ của người cháu
mỗi lúc một tha thiết mạnh mẽ và hình ảnh người bà hiện lên mỗi lúc một đậm nét.
Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thực ngày nay chuyện cổ tích đời xưa...
rồi bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Từng việc, từng việc, nhỏ
nhẹ, âm thầm hai bà cháu từng ngày từng tháng và tám năm ròng cùng nhau nhóm
bếp lửa để sưởi ấm để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Hình ảnh bếp lửa và việc nhóm lửa
cùng hình ảnh bà tần tảo âm thầm bên trong tiếng tu hú cứ trở đi, trở lại vấn vít, xoắn
quyện vào nhau, dệt lên bức tranh xao xuyến.
Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực người bà vẫn bền
vững, tấm lòng người bà vẫn mênh mông. Kỉ niệm mà người cháu nhớ bà cứ trang
trải như ánh sáng bếp lửa. Ý thơ mở tiếp những sự việc cụ thể:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Lời thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên. Xin cứ để nguyên khôi
chẳng cần phân tích lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thìa vẻ đẹp tinh thần của cả một
thế hệ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn
kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra
2
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
tiền tuyến và đẹp hơn hết, rộng hơn, cao cả hơn là vẻ lung linh bất diệt của tình bà
cháu hoà trong tình yêu quê hương, tổ quốc. Do đó không phải ngẫu nhiên, từ hình
ảnh bếp lửa, đến đây lời thơ bừng sáng thành ngọn lửa:
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bếp lửa ở những câu thơ trên, chủ yếu thể hiện cuộc sống âm thầm lặng lẽ
trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháu. Từ ngọn lửa ở dòng thơ này đã mang ý nghĩa
khái quát rộng lớn hơn. Đó là sức sông là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc
sông của hai bà cháu, cuộc sông của cả gia đình rộng ra là đối với toàn dân tộc, với
công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, lung linh
chân dung người bà và làm ấm lòng cả trái tim bạn đọc chúng ta. Ngọn lửa biểu
tượng của sự sông muôn đời bất diệt, không chỉ là kỉ niệm của riêng bà trong tình bà
cháu trong bài thơ này mà còn là biểu tượng cho toàn dân tộc trong giai đoạn chông
Mĩ xâm lược thắp sáng cho đến tận hôm nay.
Ớ đoạn cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, chuyển từ cảm xúc nhổ' thương của
đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa
nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với thế hệ ông bà, cha mẹ ngày
trước:
Lận dận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thêng liêng - bếp lửa...
Hình ảnh người bà ôm trùm cả đoạn thơ. Điệp từ nhóm được nhắc lại bôn lần
mang bôn ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần toả sáng dần nét kì lạ của bếp lửa và vẻ
đẹp thiêng liêng của người bà từ vóc dáng đến việc làm nhất là nghĩa tình sâu nặng
của bà. Nhóm bếp lửa ấy là cái bếp có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm yêu
thương là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm. Nhóm nồi xôi gạo mới thổi
chung vui bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối
cùng người bà kì diệu ấy nhóm dậy khơi dậy giáo dục thức tỉnh tâm hồn và sức sống
tuổi thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. Để đưa cháu được đi xa,
được thấy ngọn lửa khói trăm tàu, để có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả, ngôn ngữ
văn chương dạt dào như sóng rồi lan toả như lửa ấm, hay ở đây là cảm xúc dâng trào,
đang toả ấm nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu mỗi chữ cứ hồng lên, nồng
ấm biết bao tình cảm nhớ thương ân nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn dân tộc Việt Nam
3
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
chúng ta trong quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà, tổ tiên.
Vẻ đẹp của đạo lí: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm...
Tóm lại qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ
bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tấm
lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê hương
gia đình đất nước.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình
luận. Thành công của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình
ảnh người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm cảm xúc và suy nghĩ về tình bà
cháu.
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Hình ảnh âm điệu thơ đặc sắc, sáng mãi ngân mãi trong lòng chúng ta.
(Vũ Dương Quỹ - Sđd)
Đề 2. Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của
Nam Cao.
Bài làm
Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến “Lão Hạc”. Tác phẩm này
được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kì 1930 - 1945.
Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả
kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ.
Nhân vật Lão Hạc đã khắc hoạ vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh
một lão nông đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và
rất mực thương con.
Cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua
chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Goá vợ từ khi còn
trẻ, một mình lão gà trông nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con
khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm
hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí
đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con lão Hạc không hẹn
ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con.
Cảnh khốn khó về vật chất hoà trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy
trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn
chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha
khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi, lão ôm nặng. Sau trận
ôm đó lão yếu đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi,
đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng
hoá hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc...
Những thứ ấy cũng chẳng dễ gì kiêm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.
4
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Cùng đường sống, lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát
cho mình. Lão đã ăn bả chó để tử tự. Lão chết đau đớn thê thảm “đầu tóc rũ rượi, mắt
long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”.
Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đau
thương.
Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nồi xót xa
đối với con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng
lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc
từng hỏi ông giáo: “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?”.
Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người.
Lão Hạc sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm. Tình yêu thương
con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau
khổ vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với
con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đáng trốn đi làm đồn điền cao su, trái tim người
cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự
khắc khoải ngóng trông: “Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy
má gì ông giáo ạ”. Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp cuả người cha. Thương
nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu vàng - kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu
vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật - một kỉ
vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những
cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu
cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân
mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm
cho con và con chó - người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định,
lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con
chó. Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán
con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu
phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh lão Hạc “miệng méo xệch, khóc
hu hu” khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả.
Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh
vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không
làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc
chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy... Cuộc đời lão Hạc thật bi
thương. Nhưng giữa cuộc đời khôn khó, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của
mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo
mà lão biết chẳng sung sướng gi hơn lão, càng không cho phép lão phiền luỵ đến bà
con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền
làm ma cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết nhường nào...
5
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm,
hoặc tha hoá biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam
Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương
thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: “Binh Tư là một người láng giềng
khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vôn không ưa gì lão Hạc bởi vì lão lương
thiện quá.” Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão Hạc
không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một
cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lí “ thác trong hơn sống
đục” của nhân dân ta.
Cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sông thì âm
thầm nghèo đói cô đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất
tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là
một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả
chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo
thông thiết.
(Nguyễn Thị Diệu Hoa, lớp 9A9 Trường THCS Ngô Sĩ Liên. Quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội - theo Hướng dẫn tập làm văn 9, do Vũ Nho chủ biên)
Đề 3. Phân tích các tầng nghĩa trong đoạn thơ sau:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm riêng ta phần bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
Thế Lữ được biết đến vai trò như “người đặt viên gạch đầu tiên cho phong trào
thơ Mới”. Thơ ông như một luồng gió lạ, khiến cho người ta say mê vẻ đẹp của cuộc
sông, biết hi vọng vào cái sáng lạn của cuộc đời. Thế mới biết hết cái uy phong của
một “viên tướng đội quân Việt Ngữ” lẫm liệt biết chừng nào! Cái uy phong của “ngôi
sao Mới” ấy đã thể hiện rõ trong bài thơ “Nhớ rừng” - một thi phẩm nổi tiếng của
ông.
Nếu hồn thơ Thế Lữ là “cây đàn muôn điệu” thì Nhớ rừng chính là điệu thơ nổi
bật nhất của ông. Giọng điệu bao trùm thi phẩm là sự bi tráng là “khúc trường ca dữ
6
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
dội” nói lên bi kịch của cả một thời đại. Bài thơ dựng lên hai khoảng không gian đối
lập: sự hùng vĩ của thiên nhiên và sự tù túng chật hẹp của vườn bách thú nơi con hổ
đang sông. Nét bút lãng mạn của Thế Lữ đã nâng sự đôi lập đầy tính bi kịch đó lên để
tạo nên âm hưởng hào sảng kì vĩ cho bài thơ, nổi bật là hình ảnh bộ tranh tứ bình tinh
xảo và độc đáo.
Đầu tiên là bức tranh rừng núi trong đêm:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Một “đêm vàng” bên bờ suối, hình ảnh ẩn dụ ở đây thật lộng lẫy và huyền ảo.
Nhà thơ không nói đêm trăng mà nói “đêm vàng” khiến cho cảnh vật trở nên huy
hoàng rực rỡ hơn bao giờ hết. Ánh trăng chiếu xuống khu rừng làm cho mọi cảnh vật
trở nên lung linh và nhuộm một sắc vàng óng lấp lánh. Tưởng như trên thế gian này
có bao nhiêu vàng bạc, trời hút lên rồi trút xuống khu rừng. “Uống ánh trăng tan”
cũng là một hình ảnh ẩn dụ đẹp. Ánh trăng chiếu xuống mặt nước, mặt nước lung linh
hình bóng trăng và ánh trăng dường như tan ra trong dòng nước, nó loang ra, trải dài
trên mặt nước mênh mông bát ngát, lấp lánh kì ảo. Con hổ uống nước suối mà như
uống ánh trăng trong cơn say mồi. Hình ảnh này gợi ta nhớ đến câu ca dao cổ:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Thế Lữ đã thổi hồn thi sĩ vào trái tim con mãnh chúa, nếu không như thế thì
làm gì có “đêm vàng”, làm gì có “uống ánh trăng tan”. Thiên nhiên đẹp và quyến rũ
quá làm cho giá trị của buổi đêm hôm ấy dường như tăng gấp lên bội phần, càng làm
cho vị chúa tể thêm mơ màng, say sưa trong giấc mộng.
Tiếp theo là bức tranh về mưa rừng. Con hổ với sự trầm mặc của một nhà hiền
triết, lặng ngắm nhìn“ giang sơn” mà hổ bá chủ. Những trận mưa dội xuống làm tươi
mát cả khu rừng, cả rừng núi như thay đổi một sức sông mới dạt dào, tràn trề hơn bao
giờ hết. Có một cái gì đó rất trong trẻo tinh khôi hiện lên trong hình ảnh câu thơ này.
Con thú giờ đây không còn là một thi sĩ nữa mà còn cả cái nhìn của một triết gia, một
nhà thông thái. Bức tranh này mang vẻ đẹp của sự nhẹ nhàng thanh khiết và tinh tế
đến kì lạ. Cùng với bức tranh thứ nhất, nó giúp ta hiểu được sự muôn hình muôn vẻ
của thiên nhiên hằng lưu dấu vết trong tâm hồn con hổ.
Từ vai trò của một vị đế vương mà giang sơn là cả núi rừng mênh mông và
thăm thẳm. Buổi bình minh ở chôn hoang dã tươi rói sắc màu và thánh thót, du dương
âm thanh của muôn thú trong con mắt của vị chúa sơn lâm. Trên ngai vàng ngự trị, hổ
ta từ từ thưởng thức cái thú vui tiệc rượi của một đấng “quân vương” với cảnh bình
minh cây xanh làm màn che trướng rủ, chim chóc trong rừng là những cung nữ
chuyên phục vụ vị chúa oai linh bằng những điệu múa uyển chuyển và tiếng ca réo
rắt say mê, tất cả từ từ đưa vị chúa sơn lâm vào giấc ngủ dịu ngọt. Nền tranh rạng rỡ
7
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
bởi sắc màu của ánh bình minh, bởi cỏ hoa hương rừng ngan ngát. Mỗi vẻ đẹp ở đây
đẹp thấm đẫm hơi thở tự do làm cho bậc “quân vương” say đắm mê mẩn đến ngẩn
ngơ.
Bức tranh cuối cùng là cảnh hoàng hôn nơi rừng chiều. Giọng điệu thơ không
còn luyến tiếc, thở than mà trở nên mạnh mẽ, đầy chất vấn. giận dữ giữa quá khứ và
hiện tại. Trong quá khứ hình ảnh con hổ hiện lên trong tư thế kiêu hùng của một tên
bạo chúa tự do và khát máu. Mây chữ “lênh láng máu” thật là ghê gớm, làm cho ta
liên tưởng màu của ánh tà dương khi mặt trời buông sắc đỏ vào buổi chiều lênh láng.
Dường như sắc đỏ này đã nhuộm màu thời gian, trở thành kỉ niệm đáng nhớ trong tim
con hổ. Nếu rừng núi là kẻ thù thì “sau lưng” gợi ra một không gian bao la vô tận của
riêng mặt trời và cũng đồng thời làm hiện lên vẻ bí hiểm của nơi diễn ra trận chiến
quyết liệt giữa “chúa tể trên cao” và “mãnh chúa giữa rừng thẳm”. Động từ “chết”
khiến mặt trời dường như trở thành một vật thể sông, không còn là một khôi cầu lửa
vô tri vô giác nữa. Mặt trời là một con thú thảm hại dưới cái nhìn kiêu bạc của vị
chuá sơn lâm. Cách dùng cụm từ “mảnh mặt trời” làm cho hình ảnh của mặt trời
dường như trở nên tầm thường không sánh được với kì phùng địch thủ của mình
trong cuộc thi tài cao thấp quyết liệt để “chiếm lấy riêng phần bí mật”, tầm vóc của
con hổ ở đây trở nên kì vĩ trên cả vũ trụ... Bức tranh tứ bình cuối cùng này đã thể hiện
bàn chân ngạo nghễ oai linh tột cùng của một kẻ thông trị vũ trụ. Con hổ đã trở thành
chúa tể của muôn loài. Sự tự do vĩ đại như thế thử hỏi tại sao con hổ lại không “gặm”
căm hờn khi bị giam hãm được.
Những nỗi nhớ hiện lên dồn dập như trong một cuốn phim. Liên tiếp những
“nào đâu”, “đâu những”,... Khiến cho nỗi nhớ “ngày xưa” thật da diết và khắc khoải.
Trong không gian hùng vĩ và nên thơ đấy “bóng cả cây già”, con hổ mơ màng như
một thi sĩ, trầm tư như một hiền nhân, quyền uy như một đế vương và quyết đoán như
một vị chúa tể. Cái ngày xưa ấy đã qua và sẽ không bao giờ có thể trở lại được nữa.
Những gì là vinh quang tột đỉnh sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có tự do. Sau
những hình ảnh khoáng đạt là nỗi buồn sâu nặng, đau đớn. Sự tuyệt vọng của con hổ
đặc quánh và đắng chát ở câu thơ:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nhớ rừng không chỉ có sức hấp dẫn của một thi phẩm, mà còn có vẻ đẹp quyến
rũ của một kiệt tác hội họa. Lời thơ biến hoá một cách tự nhiên. Giọng điệu thơ cháy
bỏng nuối tiếc, về quá khứ thì giọng thơ hùng tráng dữ dội, quay về với thực tại thì
giọng thơ trở nên buồn tẻ, ngao ngán! Điều đó kết tụ thành nỗi thống thiết, tuyệt vọng
ở câu thơ cuối cùng:
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
Qua đoạn trích nói riêng và bài thơ Nhớ rừng nói chung đã hoàn thành được sứ
mạng lịch sử của mình, nó như một bản tuyên ngôn dành quyền sông cho thơ Mới.
8
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Khép trang sách lại tâm trí ta như vương vấn với những vẻ đẹp thiên nhiên và
với một khát vọng tự do cháy bỏng. Phải chăng khi viết bài thơ này, tác giả không chỉ
thể hiện hoàn cảnh trớ trêu của con hổ, mà còn muôn nói lên nỗi khát khao tự do
mãnh liệt, nỗi chán ghét cảnh sông tù túng, tầm thường giả dối và lòng yêu nước
thầm kín của người Việt Nam lúc bấy giờ? Khát vọng cao cả ấy vẫn mãnh liệt đến
mức đủ chinh phục và ngân vọng mãi trong trái tim người đọc mọi thời.
(Nguyễn Hoàng Lan, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
- theo Hướng dẫn tập làm văn 9 do Vũ Nho chủ biên)
Đề 4. Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng
Cuội.
Nước gợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non tản cánh diều bay.
Tản Đà là bút danh của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, được ghép tên núi Tản
(núi Tản Viên hay còn gọi là núi Ba Vì) và sông Đà, thuộc địa phận Sơn Tây cũ, quê
hương của tác giả. Trên văn đàn đầu thế kỉ XX tên tuổi của Tản Đà nổi lên như một
hiện tượng đột xuất, dồi dào năng lực sáng tạo. Ông đã đem lại cho thi ca Việt Nam
một sức sống mới, một khẳng định cho sự cách tân mạnh mẽ cuả trào lưu thơ Mới lúc
đó và mãi mãi sau này.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa Tây nửa ta, thơ Tản Đà phản ánh sự bất
bình trước xã hội rối ren, ngột ngạt, đồng thời thể hiện một hồn thơ vừa bay bổng vừa
phóng khoáng trong trái tim đa tình của người nghệ sĩ.
Thoát trần lên trăng là chủ đề của bài thơ Muốn làm thằng Cuội in lần đầu
trong tác phẩm Khối tình con vào năm 1917. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện khát
vọng được giải thoát khỏi cõi đời ô trọc đương thời để đến với một thế giới đẹp đẽ tự
do. Bài thơ đã bộc lộ nét đặc trưng về phong cách thơ Tản Đà, điều mà người ta quen
gọi lãng mạn phong tình và “ngông”.
Muốn làm thằng Cuội được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú của thơ Đường,
niêm luật rõ ràng, đôi ý đối thanh rất chuẩn, giọng điệu chung của bài thơ thể hiện
tâm tình tha thiết của thi sĩ. Ngay ở hai câu đề:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Đã bộc bạch tâm trạng của nhà thơ trong đêm thu trăng sáng. Thi sĩ một mình
than thở với vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật mà cũng không khoả lấp được nỗi buồn
canh cánh trong lòng. Nhà thơ bất bình trước thực tại xã hội đen tôi bế tắc. Cuộc sống
ngột ngạt tù túng, bế tắc làm sao dung nạp được một tâm hồn phóng khoáng yêu tự
do như Tản Đà? Trái tim muốn cất cánh bay xa, nhưng đi đâu khi xã hội thực dân
phong kiến đương thời như một nhà tù lớn giam hãm con người. Để cách biệt hẳn với
9
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
cõi tù trần gian lắm nhiễu nhương, buồn khổ thi sĩ đã chọn mặt trăng, một địa điểm
tuyệt vời và hoàn toàn tĩnh lặng để tha hồ giãi bày tâm sự.
Nhà thơ gọi trăng là chị Hằng xưng em nghe mới êm ái và dịu ngọt làm sao!
Nếu chị Hằng nghe được chắc hẳn cũng xao xuyến, bồi hồi bởi giọng điệu tha thiết
của nhà thơ khi ướm hỏi có kẻ nào chán đời đã trôn lên cõi tiên trước mình:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Rồi mới khẩn khoản thỉnh cầu:
Cành đa xin chị nhắc lẽn chơi.
Dường như nhà thơ ước muôn trở lại làm trẻ con như thuở nào để cứ mồi đêm
Trung Thu rước đèn, phá cỗ trông trăng, lại thi nhau tìm cây đa, chú cuội và thầm
mong ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” để vui vầy thoả thích với trăng sao, mây
gió. Ước trở lại tuổi ấu thơ hồn nhiên trong sáng là để giũ sạch bụi trần, gỡ bỏ ngoài
tai ngoài mắt “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong suốt nửa đời người.
Bỗng chốc nhà thơ trở lại với tuổi thơ với giọng điệu nũng nịu, thiết tha lời thỉnh
nguyện đặc biệt có một không hai này. Cảnh và tình trong hai câu đề là nỗi buồn
thấm thìa nhưng giọng điệu lại lộ ra nét hóm hỉnh.
Nếu ở câu thực, nỗi buồn chỉ còn phảng phất thì đến hai câu luận niềm vui
được bộc lộ khá rõ khi nhà thơ tưởng tượng mình đang sông cùng tiên nữ Hằng Nga
ở trong cung trăng:
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui.
Nhà thơ muốn làm thằng cuội để giải thoát nỗi buồn tích tụ bấy lâu nay. Sông trên
cung trăng thi sĩ vừa thoát khỏi cảnh đục trong của chốn nhân gian, vừa thoả mãn thú
tiêu dao được bầu bạn “cùng mây cùng gió”. Nhưng thích nhất vẫn là được kề vai sát
cánh với người đẹp Hằng Nga để cùng tựa vai nhau nhìn ngắm thế gian ngạo nghễ:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Tâm trạng nhà thơ khi đã thoát tục lên tiên, nhìn xuống trần gian thấy thế giới
thật nhỏ bé, chật chội, tù túng với đủ mọi chuyện nực cười. Nhà thơ muôn được thành
tiên để cười vào thói bon chen danh lợi và cảnh lo toan miếng cơm manh áo chật vật
của kiếp người nơi trần thế.
Hai câu luận giống như một lời tự nhủ: “Có bầu có bạn can chi tủi” thì cái cười
ở đây đã bật lên thành tiếng. “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Sau chuỗi cười
dài ấy, thi sĩ từ cõi mộng trở về cõi thực thì nỗi buồn lại đầy ắp trái tim; mong được
lên tiên chỉ là niềm vui tinh thần để được tự do của Tản Đà. Nó là ảo giác là khát
vọng ám ảnh bởi nhà thơ suốt đời phải sông trong thực tế phũ phàng. Bài thơ không
gây ra cảm giác bi quan, yếu thế mà gợi lên nỗi buồn man mác, thôi thúc người đọc
đến với tự do, đến với những gì đẹp đẽ nhất hoàn mĩ nhất.
10
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Muốn làm thằng cuội là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Tản Đà, một nhà thơ
nổi tiếng là “ngông”. Cùng thời với ông và muộn hơn một chút, Chế Lan Viên tìm
đến “Điêu tàn”, đổ nát sống cô đơn với quá khứ đau thương; còn Xuân Diệu say đắm
với tình yêu đôi lứa; Huy Cận giấu mình vào “Vũ trụ ca”, Vũ Hoàng Chương triền
miên với thơ “Say”,... thì Tản Đà lại xin chị Hằng cho trôn lên cung Quảng để vui thú
với cõi tiên.
Tản Đà “ngông” vì muôn dược làm bạn với Hằng Nga, với gió, với mây và
được thành tri âm tri kỉ với chị Hằng. Trong xã hội thối nát đương thời bao kẻ vì ham
chữ “danh” và chữ “lợi” mà đánh mất hết nhân cách, nhà thơ “ngông” của chúng ta
muốn thoát tục để giữ mình được trong sạch, để hướng tới một sự tự do cao cả. Đó là
cái trái khoáy đáng quý đáng trân trọng về nhân cách của thi sĩ.
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội hay về nội dung ý nghĩa, độc đáo về sáng tạo
nghệ thuật. Nó tiêu biểu cho phong cách tài hoa của nhà thơ núi Tản sông Đà. Bài thơ
được dệt lên bằng bút pháp lãng mạn bằng trái tim nhân hậu của nhà thơ. Tuy được
viết theo thể thơ Đường luật nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được nét tự nhiên của bài
thơ, đồng thời bài thơ còn phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca như một sự Việt
hoá thành công.
Đọc Muốn làm thằng Cuội, chúng ta thấy toát lên một nỗi buồn chán trước
toàn cảnh thực tại của xã hội đương thời. Nhà thơ muôn thoát li khỏi hiện thực đen
tối băng mộng tưởng. Đây là giấc mộng táo bạo, hợp với tính cách của con người nhà
thơ. Nỗi buồn của Tản Đà không dừng lại ở nỗi buồn thời thế của riêng ai mà là nỗi
buồn cho thời đại, cho viễn cảnh của xã hội, cho tâm trạng chung của tầng lớp tri
thức, nghệ sĩ trong xã hội thời bấy giờ.
(Trần Minh Trang, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội theo Hướng dẫn Tập làm văn 9 do Vũ Nho biên soạn)
Đề 5. Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ “Mây và sóng”của Ta-go.
Văn học muôn đời vẫn đấy ắp tình thương. Nhiệm vụ của nó là thể hiện và
ngợi ca những tình cảm đẹp đẽ trong cuộc sống của con người. Chính vì vậy mà tình
mẫu tử được đưa vào thơ ca và trở thành chủ đề không bao giờ vơi cạn. Mây và sóng
là một trong những bài thơ đó. Với thi pháp độc đáo thi phẩm đã ngợi ca tình cảm của
đứa con dành cho mẹ. Sức gợi cảm của bài thơ không chỉ là nghệ thuật đặc sắc mà
còn chiều sâu của ý nghĩa của một vẻ đẹp chan chứa tình cảm thiêng liêng của con
người.
Bài thơ là lời kể của em bé, được chia thành hai phần có nhịp điệu giống nhau,
nhưng các từ ngữ hình ảnh có sự khác biệt mới mẻ và mức độ tình cảm của em bé
dành cho mẹ phát triển ngày càng sâu sắc mạnh mẽ hơn. Chính điều này làm nên sức
hấp dẫn của bài thơ.
11
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Phần thứ nhất của bài thơ, em bé kể về việc mình được rủ đi chơi và em đã từ
chối; phần thứ hai là sáng tạo ra trò chơi của em bé. Tình yêu quý cha mẹ là điều
không mới mẻ nhưng ở đây tình cảm bộc lộ một cách không giống lẽ thường mà nó
vượt qua mọi thử thách, vượt qua mọi cám dỗ ở đời. Hai phần của bài thơ đứng cạnh
nhau, giúp chúng ta hiểu rõ về tình mẫu tử sâu sắc và trọn vẹn tình cảm của em bé
dành cho mẹ.
Những trò chơi trên mây, dưới sóng được mời chào rất lí thú và hấp dẫn trên
nền của bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng đã gợi lên trong lòng con người
sự ham mê khó có thể cưỡng lại được... Chúng ta tưởng tượng những trò chơi đó chỉ
có thể có ở xứ sở thần tiên hay ở cõi thiên đường huyền bí:
Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà
Bọn tờ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc.
Trẻ em ai chẳng thích đi chơi, nhất là khi trò chơi lại thú vị và lôi cuốn như thế.
Vậy mà những lạc thú vui chơi nào đã dừng lại! Càng về sau chúng càng rủ rê, chèo
kéo tha thiết hơn, sôi nổi hơn, hết lần này đến lần khác, và mỗi lần lí thú hơn hấp dẫn
hơn:
Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn.
Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao.
Thật là những thú vui đến trong mơ cũng khó thú vị hơn, lời mời ngọt ngào,
ngay cả người lớn cũng khó cưỡng nổi nữa là trẻ con. Chúng ta nghe lời hỏi của đứa
bé để thấy Ta-go am hiểu tâm lí trẻ em như thế nào: Nhưng làm thế nào mình lên đó
được?
Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?
Những lời hỏi thể hiện mong muốn được chơi của bé. Vậy mà bỗng chốc em
đã từ chối tất cả chỉ vì một lí do đơn giản nhưng tràn ngập tình yêu thương.
Hoặc:
Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được'?
Lời khước từ ngây thơ nhưng chân thật đó như một minh chứng cao đẹp cho
tình mẫu tử thiêng liêng và sâu sắc của nhân vật trữ tình trong tác phẩm của Ta-go.
Những thú vui dù hấp dẫn, dù đáng mơ ước đến đâu cũng không thể vượt qua hình
ảnh ấm áp của mẹ trong trái tim em bé. Dường như em bé hiểu rằng, khi được ở bên
mẹ thì cuộc sống sẽ đẹp đẽ hơn bất cứ xứ sở thần tiên nào. Em hiểu được niềm hạnh
phúc của tình yêu thương và sự nâng niu chiều chuộng của mẹ sẽ đem lại cho em
những điều cần thiết hơn và cả những thứ vui hấp dẫn khác trên cõi đời này. Em bé
đã sớm nhận thức được những trò chơi trên mây dưới sóng với bạn bè trong chốc lát
làm sao có thể thay thế những giây phút được kề cận bên mẹ. Được gần gũi bên
người mẹ thân yêu thay vì những thú vui chốc lát chính là niềm hạnh phúc của sự hi
sinh.
12
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Nếu bài thơ chỉ dừng lại ở đó thì Ta-go cũng không thể vượt lên biên giới mà
đến với chúng ta, với năm châu bạn bè được. Ớ phần thứ hai với trí tưởng tượng và
tình cảm tha thiết, em bé đã nghĩ ra trò chơi hết sức thú vị. Dựa trên những thú vui
thần tiên mà em vừa nghe kể để sáng tạo ra trò chơi cho riêng mình. Ở đó cũng có
mây và trăng, lại không thể sóng biển và bến bờ kì lạ... nhưng điều quý giá nhất trong
những trò chơi của em bé là có cả mẹ nữa.
Từ chối niềm vui riêng của mình để vui cùng mẹ là cả một quá trình diễn biến
tâm lí sinh dộng và thú vị, đặc biệt cho cả hai mẹ con. Em hiểu sâu sắc rằng niềm vui
của mình chỉ trở nên trọn vẹn khi có mẹ ở bên và ngược lại. Hai mẹ con không chỉ
chơi với mây và sóng mà chính họ đả hoá thân vào mây và sóng:
Con là mây và mẹ sẽ là trăng
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ.
Đây không còn là trò chơi bình thường nữa mà là trò chơi muôn đời bền vững
và trường tồn, không bao giờ nhàm chán. Bởi lẽ trong đó hình ảnh đẹp tuyệt vời của
hai mẹ con quấn quýt bên nhau trong tình yêu lớn. lao và cao cả:
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Dư âm của tiếng cuời như những giọt pha lê ngân mãi trong lòng; chúng ta bởi
niềm vui bất tận của tình mẫu tử thiêng liêng và kì diệu. Niềm vui đó được ủ kín, như
của chỉ riêng hai mẹ con mà người ngoài không ai tìm được:
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào
Tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý đã hoà vào vũ trụ và cuộc sông xung
quanh. Nó hiện hữu ở mọi nơi trên thế gian để khẳng định tình yêu thương có sức
mạnh biến đổi không lường.
Qua câu chuyện thần tiên giản dị đó, bài thơ còn gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu
sắc. Nó không chỉ là lời ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng mà còn gửi gắm nhiều suy
ngẫm về cuộc sống. Cũng như những trò chơi trên mây dưới sóng, cuộc sống có rất
nhiều cám dỗ mà mỗi con người rất khó vượt qua. Nhưng người ta hoàn toàn có thể
vượt qua những thử thách ấy bằng sức mạnh tình cảm tốt đẹp trong cuộc đời. Tình
mẹ con là một trong những chỗ dựa ấm áp nhất, vững chắc nhất của con người. Nó là
ngọn lửa khơi nguồn sáng tạo, nó làm thăng hoa vẻ đẹp tinh thần muôn đời bất diệt
của nhân loại. Cũng như em bé đã hướng lòng mình vào sự vĩnh cửu của tình mẫu tử,
chúng ta luôn tin tưởng vào sức mạnh trường tồn của tình cảm con người. Nhờ đó
con người có đủ dũng cảm đối mặt với mọi cám dỗ, mọi thử thách trong cuộc sống
bộn bề gian khó hôm nay.
Ta-go đã lựa chọn một đề tài rất độc đáo cho thi phẩm của mình; tình yêu
thương đầy hi sinh và sự sáng tạo của đứa con đối với mẹ - điều mà từ trước tới nay
rất ít người đề cập. Và ông đã thành công trong việc mô tả, ngợi ca nó bằng hình thức
đối thoại trong lời kể của em bé, lồng vào bức tranh thiên nhiên thơ mộng đầy sức
13
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
sống. Bài thơ đã thành công khi thể hiện những suy ngẫm sâu sắc, tâm hồn và trái tim
mơ mộng của con người.
(Lê Hoàng Hoa, lớp 9A1, Trường THCS - theo Hướng dẫn tập làm văn 9 do vũ Nho
biên soạn)
Đề 6. Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Cuộc sống là những chuỗi chuyển biến và đổi thay mà con người không thể
nào lường được. Đôi khi chúng ta bị cuốn theo dòng chảy bất tận của nó mà vội vã bỏ
quên những giá trị những nghĩa tình thuỷ chung cũng chưa xa trong quá khứ. Sau
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ vĩ đại của dân tộc - cuộc chiến mà biết bao nhiêu
máu và nước mắt đã đổ xuống cho sự thống nhất của dân tộc, cuộc chiến mà hiển
hiện trong đó bao nhiêu chiến công lẫy lừng, bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng.
Chúng ta thật xót xa khi phải chứng kiến sự thờ ơ lạnh nhạt của con người trước
những năm tháng không thể nào quên ấy. Nhiều tác phẩm lúc bấy giờ đã gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh đầy ngỡ ngàng và chua xót với cái xã hội đang quẩn quanh
trong nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong số đó.
Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình
ảnh ánh trăng - vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng biển bạc. vầng trăng ấy đã
theo tác giả từ thủa còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con
người với vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa con người và vầng trăng đã
trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ bền chặt, với bao nhiêu chuyển biến của
thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Nhưng cuộc đời không phải là sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay không
phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua chúng ta nâng niu
trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở nên thừa thãi vô nghĩa bấy nhiêu. Quá
khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn cũng là quá khứ, vần có thể bị che khuất bởi những lo
toan dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả kể
lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện
cửa gương”. Trong tâm trí con người vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy,
chua xót thay đã bị trở thành “người dưng qua đường”. Cái ngỡ thân quen xưa nay trở
thành âm thầm xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ tạo nên bước ngoặt của tác phẩm khi
để tình huống bất ngờ ‘ đèn tắt” xảy ra. Lúc đó con người đối diện với vầng trăng
tròn trịa ân tình trong quá khứ chợt họ nhận ra được vẻ đẹp và giá trị đích thực của
ngày xưa ẩn sau sự dịu dàng và bao dung của ánh trăng.
Trên cơ sở đó, tác giả viết khổ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc
của toàn bài thơ.
14
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn cao thượng đến lạ lùng mặc cho con người có
thờ ơ lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên thanh bạch. Vầng trăng đó
biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ thiếu thôn mà nghĩa tình, cho tấm lòng
của nhân dân yêu thương che chở đùm bọc cách mạng:
Trăng cứ tròn vành vạnh. Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân nghĩa
thuỷ chung của một thời oanh liệt - dù đã lùi xa mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn
cùng thời gian. Sự tròn đầy viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con
người làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước toà án lương tâm. Quả thật chẳng có
toà án nào xét sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri sâu thẳm mới đánh thức
trong chúng ta trách nhiệm đối với quá khứ. Sự cao thượng vị tha của vầng trăng - bất
chấp vô tình xa lạ - buộc con người phải suy nghĩ lại chính mình. Bài thơ được sáng
tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ có ba năm với
cuộc sông thị thành, với bộn bề lo toan thường nhật có thể làm cho người ta lãng
quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn thiếu thôn và sự ấm áp tình đồng đội, vòng
tay che chở của nhân dân? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn
của dòng chảy thời gian nhưng điều đang xảy ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng
nhìn lại.
Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng nặng lòng toả sáng đêm
đêm:
Ánh trăng im phăng phắc
Cho ta thấy được sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó lặng im trước
sự bội bạc của con người, cái lặng im dịu dàng tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ
nghiêm khắc xoáy vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ chính sự im lặng ấy có sức mạnh
khiến cho con người phải giật mình nghĩ lại. Họ nhận ra giá trị những điều mình đã
bỏ quên — quá khứ của chính mình một thời hào hùng oanh liệt của dân tộc: Đủ cho
ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình”
được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm
làm toát lên ý nghĩa của toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người
mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều mà nhà thơ muôn nói với cái xã hội đang quay
cuồng trong vòng xoáy lo toan và mưu tính.
Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai. Tất
cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả
những gì chúng ta đang làm đều là nối tiếp những điều cha ông chúng ta và chính
15
Sách Giải - Người thầy của bạn
http://sachgiai.com/
chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng
tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muôn gởi gắm
đến người đọc qua những vần thơ?
Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người và xã hội theo
hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội
dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ cuối bài thơ là sự “giật mình” của con
người, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sông và cả sự thức tỉnh đến toàn
xã hội chúng ta.
(Phan Tuấn Ngọc, lớp 9A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội theo Hướng dẫn Tập làm văn 9 do Vũ Nho chủ biên)
16