Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

NGUYỄN DU-TRUYỆN KIỀU.

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Thành Đạt 26 tháng 10 2020 lúc 21:52:07 | Được cập nhật: 21 giờ trước (21:44:16) Kiểu file: DOC | Lượt xem: 483 | Lượt Download: 4 | File size: 0.243712 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

NGUYỄN DU-TRUYỆN KIỀU
1.NHẬN ĐỊNH HAY VỀ .TRUYỆN_KIỀU
"Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt
thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm
ngùi, đau đớn đứt ruột…
Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm
tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm
lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”(Tiên
Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân)
"Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn"(Chế lan Viên)
"Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái
hoá phải, đen hoá trắng và người đàn bà goá phụ trở thành cô
dâu mới" (Sheakespear)
"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày"
(Tố Hữu)
"Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho
ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là
người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta.
Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ VN đã
trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện
đầy đủ và sâu sắc" (Đào Duy Anh)
"Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê. Đây là
căn nguyên của hai chữ đoạn trường" (Tiên Phong Mộng Liên
Đường Chủ Nhân)
"Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa
ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra người tài mệnh trong
mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có
lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, mới có cái văn tả hệt ra như vậy''
(Phong Tuyết Chủ Nhân)
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn" (Phạm
Quỳnh)
"Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng
những vật có chất độc'' (Huỳnh Thúc Kháng)

Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

"Truyện Kiều là một tiếng khóc vĩ đại... Nguyễn Du đã nhìn thấy,
đã cảm xúc, đã tổng kết hàng vạn vạn đau khổ của người đời dưới
chế độ phong kiến suy đồi" (Xuân Diệu)
"Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc
mơ... một cái nhìn bế tắc" (Hoài Thanh)
"Hồn Nguyễn Du phảng phất mỗi trang Kiều'' (Khuyết danh)

2.Phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều
Truyện Kiều là tên gọi phổ biến của tác phẩm Đoạn trường tân thanh, tác phẩm đã
đưa Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hóa thế giới. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu về đề tài này, tuy nhiên, trước Phan Ngọc, chưa có một công trình ngôn
ngữ học nào nghiên cứu về phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều. Giáo sư là
người đầu tiên thực hiện công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Nội dung trọng tâm của cuốn sách này là phân tích, lý giải những cống hiến của
một nhà thơ, một thiên tài, một tấm lòng trong thiên hạ. "Ít nhà thơ trên thế giới có
khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du
ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt
Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại lệ"
(Georges Boudarel).
Viết về một kiệt tác không có gì là khó khăn, nhưng để viết làm sao vừa hay, vừa
lạ, vừa chất, vừa có giá trị lại là một chuyện hoàn toàn khác. Viết về một nhà văn
nổi tiếng thì có hàng nghìn tư liệu để viết, nhưng viết làm sao để người ta nhớ tới
mình, cảm ơn mình, viết làm sao để không thẹn với tác giả ấy, ngòi bút ấy hay
chính ngòi bút của mình thì lại là một chuyện cần phải tốn nhiều giấy mực. Trong
viết văn cũng giống như vậy. Một nhà văn khi xây dựng phong cách của mình, có
những yếu tố vay mượn và có những yếu tố sáng tạo. Phong cách một nhà văn, dù
có vĩ đại đến đâu, cũng phải phản ánh phong cách thời đại. Nguyễn Du có một kiểu
lựa chọn riêng, không giống kiểu lựa chọn của Thanh Tâm Tài Nhân, và GS.Phan
Ngọc đi tìm lý do giải thích kiểu lựa chọn của Nguyễn Du. Đây là một điểm tốt
cho con đường tiếp cận Truyện Kiều và Nguyễn Du của tác giả.
Nguyễn Du cũng là một con người của thời đại, ông có những cách lựa chọn mà
thời đại khuyến khích ông. Qua tác phẩm cũng như qua chính cuốn sách này, ta sẽ
thấy rõ tính thời đại của nghệ thuật ông. Dẫu sao, nghệ thuật của ông cũng thể hiện
sâu sắc nhất và điển hình nhất nghệ thuật của thời đại, qua đó lại thấy được phong
cách thời đại... Việc đặt Nguyễn Du vào sự đối lập với các văn hào của thế giới
cũng là một phương pháp nghiên cứu quan trọng, bởi qua đó ta chứng minh được
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

sự vĩ đại của Nguyễn Du. Vì thế, Phan Ngọc nghiên cứu đánh giá trên nhiều khía
cạnh: vấn đề tư tưởng, phương pháp tự sự, bố cục theo yêu cầu của kịch, ngôn ngữ,
câu thơ, ngữ pháp...
Mặc dù bản thảo cuốn sách Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều
được Phan Ngọc hoàn thành năm 1965, hai mươi năm sau (1985) cuốn sách mới
được ra mắt bạn đọc ở nhà xuất bản Khoa học xã hội, bởi như tác giả nói "còn để
bổ sung hoặc sửa chữa hệ thống thao tác". Và cũng có thể là nó gặp rất nhiều
những thách thức mà một tác phẩm "vượt thời" luôn mắc phải. Tuy nhiên, nói như
nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: "Cuốn sách vẫn sừng sững như một thách thức".
Phải, nó cũng thách thức chính những người đang nghiên cứu, đang muốn tìm hiểu
Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Truyện Kiều là một niềm tự hào của dân tộc Việt "trên từ các bậc văn nhân thi sĩ,
dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được
ít nhiều..." (Dương Quảng Hàm). Ca dao lại có câu:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè Mạn Hảo, xem Nôm Thúy Kiều.
Nói thế để chúng ta biết Truyện Kiều có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống dân
tộc, vì vậy việc hiểu Truyện Kiều đối với thế hệ chúng ta ngày nay là một điều cực
kì cần thiết. Chúng ta không thể khơi khơi nói rằng Truyện Kiều rất hay, Nguyễn
Du rất tài được. Chúng ta phải hiểu cái hay đó như thế nào? Cái tài đó thể hiện ở
đâu? Đây cũng là một kho báu văn hoá mà những ai muốn quảng bá hình ảnh Việt
Nam đến với bạn bè năm châu.
Tôi từng quen một giảng viên của đại học California, bà đang nghiên cứu về
Truyện Kiều trên báo chương Việt Nam. Tôi thực sự rất phục lòng kiên trì của bà
khi tìm hiểu về một tác phẩm nổi tiếng như vậy. Vì nó nổi tiếng nên số lượng các
bài viết về nó nên báo chương 3 thế kỉ nay thực sự là một con số khổng lồ. Nhưng
bà nói: yêu và say mê. Đơn giản vậy thôi. Tôi hi vọng sau công trình công phu và
nghiêm túc của bà, Truyện Kiều sẽ được nhiều người quan tâm hơn ở ngoài biên
giới Việt Nam.
Còn GS. Phan Ngọc, với tình yêu đối với Truyện Kiều, ông đã mang đến cho
chúng ta một cuốn sách khơi rất nhiều suy nghĩ mới về một kiệt tác của một thiên
tài theo hướng mở. Nếu bạn là một người nghiên cứu văn chương thực sự, bạn sẽ
tìm thấy rất nhiều những nhận định mang tính luận đề. Bạn sẽ có cơ hội chứng
minh hoặc phản bác. Nếu bạn là một người yêu văn chương hay đơn giản là yêu
Truyện Kiều, thích Nguyễn Du, bạn cũng có thể thấy được những yêu ghét của
cuộc đời dành cho tác phẩm này để rồi ngẫm nghĩ và thích thú.
Hãy đọc để thấy Nguyễn Du và Truyện Kiều thực sự đáng được muôn đời tôn
vinh...

Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

3.Cảm thức 'buồn trông' trong Truyện Kiều
Cảm thức "buồn trông" của Nguyễn Du là đạp bước và nhắm hướng cái đẹp mà đi,
đầy mơ tưởng dù chỉ dựa vào ít ỏi điều trông thấy.
Bi cảm có mặt trong mọi nền văn học. Từ đó mà có mỹ học về cái bi. Nhưng cái bi
cũng đa dạng như chính đời sống. Vì thế mà có vô số niềm bi cảm. Bi cảm cũng là
cách ta nhìn cuộc đời: "Trăm năm trong cõi người ta", "Trần thế bách niên khai
nhãn mộng" (Nguyễn Du).
Bi cảm mang những tên gọi khác nhau trong từng nền văn học, thậm chí trong từng
tác phẩm văn chương.
Với Hy Lạp đó có thể là pathos.
Với nhà thơ La Mã Virgil, phải chăng cái bi cảm đó là "lệ trong muôn vật".
Nhìn từ Ấn Độ, đó là cảm thức karuna.
Ở Nhật, đặc biệt trong kiệt tác Truyện kể Genji, đó là aware.
Trong văn học Thổ Nhĩ Kỳ, qua diễn giải của Orhan Pamuk, ta có bi cảm huzun
mà tôi thích phiên âm là u dung (dung mạo của u buồn).
Với Schopenhauer, trong nghệ thuật ông nhấn mạnh đến "tinh túy của bi thương, ý
niệm của bi thương" (the essence of distress, the very Idea of distress).
Và Nguyễn Du? Nhà thơ "có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời", nói theo Mộng Liên Đường chủ nhân (1820).
Mộng Liên Đường chủ nhân ngay từ năm 1820 ấy đã nắm bắt thần tình cái tinh túy
của bi cảm Nguyễn Du là "trông thấu" và "nghĩ suốt".
Vận dụng cái bi cảm "buồn trông" của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên cái bi trong
một cái nhìn sâu thẳm, xứng đáng được xưng tụng là trông thấu sáu cõi nghìn đời.
Ngay nơi đoạn mở đầu, ta đã gặp cái "buồn trông" đó:
"Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Nguyễn Du không chỉ nhìn thấy cái đau đớn (cái bi, cái đoạn trường) trong cõi
người ta, trong đời Kiều, trong thập loại chúng sinh mà, ông còn làm cho ta thấy,
làm ra cái thấy. Nhà thơ tuyệt diệu nhất là "Người làm cho thấy" (the Maker-see)
nói theo Robert Browning.
Buồn trông nguyên là một cái nhìn của ca dao:
"Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai!
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ"
"Buồn trông ngọn gió vờn mây,
Tương tư ai giải cho khuây nỗi buồn"
"Buồn trông trăng đã khuyết rồi,
Chia tay nhớ mãi những lời giao ngôn"
"Buồn trông con nhện giăng tơ,
Con mắt vẫn tỉnh mà ngờ chiêm bao"
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du nhìn nàng bằng con mắt nàng đang nhìn
thiên nhiên. Một cái nhìn buồn ôm lấy cả nhân vật và sự vật:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi". (câu 1047-1054)
Ta thấy dường như Kiều lần lượt đồng hóa mình với cánh buồm (thấp thoáng
mong manh trên biển) với hoa trôi (lênh đênh vô định), với nội cỏ (không còn là cỏ
non xanh tận chân trời thuở chơi xuân cùng các em) và đặc biệt là gió cuốn (cuốn
theo chiều gió) và tiếng sóng (vây bủa quanh chỗ ngồi trong tiếng gầm khủng
khiếp).
"Buồn trông" ở ca dao chỉ cho thấy sự vật thấm đẫm nỗi chờ trông thương nhớ của
con người chứ chưa mang lấy một ý thức về thân phận bị lưu đày như ở Kiều.
Nghĩa là Nguyễn Du đã đẩy cái cảm thức buồn trông ở ca dao đi xa hơn, tạo nên
một bi cảm về thân phận chứ không chỉ là một bi cảm về tình tự.
Cái phương thức biểu hiện của Nguyễn Du được ông nói rõ trong câu 1038:
"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng".
Ở đây, cần phải hiểu thấu đáo là tình và cảnh không bao giờ biệt lập. Mà là tương
thôi. Cái này thôi thúc cái kia. Cùng như tương chiếu. Cái này chiếu ánh cái kia.
Và cũng là tương duyên. Cái này là duyên cớ của cái kia.
Con người trong Truyện Kiều không bao giờ đứng ngoài cảnh, không bao giờ đứng
ngoài thiên nhiên.
Bi cảm không chỉ là cách nhìn vào thiên nhiên, sự vật, thiên hạ mà còn là cách để
cho thiên hạ nhìn vào mình, trông vào bi kịch của mình:
"Cũng liều một hạt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!" (câu 1961-1962)
Đó cũng là "buồn trông" chứ sao? Kiều nhìn Đạm Tiên như thế nào thì nàng cũng
muốn người đời nhìn mình như thế.
"Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?" (câu 109-110)
Trong Kiều, "tưởng" trong nhiều trường hợp cũng có nghĩa là "buồn trông" như là
câu trên. Tưởng đến mà đau thì cũng như trông thấy mà đau.
Tưởng cũng là "mơ tưởng", là trông thấy trong mơ mà buồn. Do đó Nguyễn Du
viết ra câu thơ kỳ lạ đầy lung linh này:
"Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng". (câu 251-252)
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Đừng nghĩ đến một mặt hay hai mặt. Đây là cái lung linh của ngôn từ Nguyễn Du.
Có vô số gương mặt kiều mị của Kiều hiện ra trong mơ tưởng của chàng Kim.
Hoặc là nhìn đâu cũng thấy gương mặt nàng. Trong mây, trong nước, trong hoa.
Và cũng có vô số nỗi buồn, nỗi lòng. Thời gian thì cứ hết đêm, rồi hết tháng, mà
bóng Kiều đâu?
Nhưng những cái "buồn trông" vừa kể có vẻ thuộc về nỗi niềm riêng tư. Còn
những buồn trông lớn hơn, ôm cả cõi người ta. Cái buồn trông luôn luôn mang tính
quán chiếu, quán sát.
Khi chia tay với Kiều, Kim Trọng có cái nhìn bao quát hơn về phong cảnh và thời
gian. Bây giờ "bước đường" đang "chia hai". Bây giờ thời gian đang chuyển mùa,
từ hạ sang thu. Bây giờ anh có một "mối sầu" đang sẻ nửa.
Và chính vì vậy mà cái buồn trông của anh vừa hướng ra ngoài vừa vọng vào
trong. Trên người mình, anh gánh cả cảnh và tình:
"Buộc yên quẩy gánh vội vàng,
Mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai.
Buồn trông phong cảnh quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày". (câu 563-568)
Mới vừa "Dùng dằng chưa nỡ rời tay", Kim đã bước vào cuộc lưu đày, vào cõi xa
lạ và vào tương tư xứ. Cuộc lưu đày của Kim diễn ra trước Kiều, hướng về một
tang lễ, một tang tóc nhưng không có gì chết trong bản thân anh.
Trong khi, cuộc lưu đày mà Kiều sắp bị ném vào thì khác. Có cái gì đó trong bản
thân nàng sẽ phải chết, mà cái nhìn buồn của nàng như tiên cảm được:
"Nàng thì đứng tựa hiên tây,
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi dạt thắm liễu xơ xác vàng". (câu 569-572)
Cái "buồn trông" của Kiều luôn luôn là một khả năng dự cảm về một tương lai u
thảm. Chơi mả Đạm Tiên, ngồi lầu Ngưng Bích và ngay cả khi tắm trước mặt Thúc
Sinh. Ngay khi để lộ một tòa thiên nhiên nàng lại nói: "Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng".
Vừa khi "rời tay" Kim Trọng, Kiều đã cảm thấy bao nhiêu nỗi truân chuyên đang
chờ mình. Cái bi cảm đó không trừu tượng mà rất cụ thể với khói ngất, hoa trôi,
liễu xác.
Nó gợi đến đoạn ca dao:
"Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai!"
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Nhưng rõ ràng cái "buồn trông" của Kiều bi thiết hơn ca dao nhiều với làn khói của
nghiệp duyên bay đến trước, dẫn đường cho những oan khổ lưu ly. Chính thế mà
nhận định về thi hào Nguyễn Du, Từ điển Bách khoa Britannica viết:
"Truyện thơ của Nguyễn Du diễn đạt những đau đớn riêng tư và thể hiện lòng nhân
đạo sâu sắc thông qua sự khai thác học thuyết của nhà Phật về nghiệp quả báo ứng
cho những tội lỗi cá nhân". (Dẫn theo văn bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt
Nam, Nxb Trẻ, 2015).
Thực ra, không có gì là đau đớn riêng tư. Mọi nỗi đau đều được Nguyễn Du thể
hiện như là nỗi đau con người, nỗi đau trong cõi người ta. Cái bi trong đời Kiều
được diễn đạt thành yếu tính của bi, ý niệm của bi. Do đó mà người ta trích Kiều,
tập Kiều trong mọi trường hợp.
Mỗi câu thơ trong Kiều không gói mình trong ý nghĩa riêng tư. Truyện Kiều, như
mọi kiệt tác khác, mang trong mình chân trời của ý nghĩa. Đó là thứ ý nghĩa mở ra
mãi mãi, không dừng lại ở nơi chốn hay thời đại nào:
"Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao". (câu 3013-3014)
"Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa". (câu 3121-3124)
Cái nhìn của Nguyễn Du thì buồn, nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Cái buồn
trông ấy hướng về chân trời của bình an.
Từ bi đến an, đó là cái nhìn phương Đông, rất gần với mỹ học Ấn Độ: Từ karuna
rasa đến santa rasa.
Cái nhìn đó khác với bi kịch Hy Lạp. Theo Roland Barthes: "Bi kịch chỉ là cách
kết tập bất hạnh của con người".
Nhưng Kiều, hay con người, không chỉ có bất hạnh, bất an.
Cũng khác với Virgil, thiên nhiên trong Kiều dù đôi khi đẫm lệ vẫn có mùa xuân
và những ngày vui.
Đặt bên bi cảm mono no aware của Truyện kể Genji ở Nhật, cái buồn trông của
Nguyễn Du "động" hơn, phong trần hơn vì aware giống như cái nhìn của người lữ
khách, còn buồn trông đi với một thân phận lưu đày.
Còn cái huzun mà nhà văn Orhan Pamuk nhắc tới thì lại khác. Là một thứ tâm
trạng u tối, cái u dung của hàng triệu con người trong một thành phố lâu đời.
Cái buồn trông của Nguyễn Du thì ít bóng tối hơn:
"Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang". (câu 265-266)
Cảm thức "buồn trông" của Nguyễn Du là đạp bước và nhắm hướng cái đẹp mà đi,
đầy mơ tưởng dù chỉ dựa vào ít ỏi cái trông thấy.
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Cái buồn ấy chính là "cái tâm" của thơ ca, tinh túy của thơ ca. Một thứ thơ ca buồn
nhưng ái ân với đời sống.
4.Ẩn dụ trong Truyện Kiều
VHSG- Truyện Kiều sử dụng rất nhiều ẩn dụ. Theo thống kê sơ bộ
của chúng tôi Truyện Kiều gồm có khoảng 240 câu có ẩn dụ trong
số 3254 câu, chiếm tỉ lệ 7,2%. Mọi người đều biết ngôn ngữ thơ
thực chất là ngôn ngữ ẩn dụ, do đó thành phần ẩn dụ gia tăng rõ
ràng có tác dụng tạo nên chất thơ cho lời thơ, làm cho văn
chương Truyện Kiều thêm bóng bẩy, thấm thía. Lê Trí Viễn từng
nhận xét rất đúng: “Cách nói nhiều hình tượng trong Truyện Kiều
là cách nói bằng ẩn dụ, không có trang nào là không thấy một vài
ẩn dụ(1).
Khái niệm “ẩn dụ” mà chúng tôi nói đây mang nội dung hiện đại.
Trong thuật ngữ phong cách học cổ điển Trung Hoa có thuật ngũ
tỉ dụ bao gồm ba hình thức: minh dụ (A như B), ẩn dụ hay ám dụ
(A là B) và tá dụ (mượn B thay cho A, A vắng mặt. Ví dụ: Tuế hàn
nãi tri tùng bách chi hậu điêu dã. “Tùng bách” được ví với người
quân tử, nhưng ở đây nó không được nói ra, vắng mặt). ẩn dụ
trong nội dung hiện đại rõ ràng là bao gồm cả hình thức “tá dụ”
nêu trên và chỉ phân biệt với “minh dụ”, được hiểu là phương thức
so sánh hình ảnh.
Ẩn dụ nói chung là phương thức tu từ thường gặp trong thơ ca (và
cả trong các văn bản khác) có cấu tạo như sau: Nó đem từ ngữ
hay phương thức biểu đạt vốn để chỉ sự vật A hay hành động A,
mà chỉ trực tiếp sự vật B hay hành động B hoàn toàn khác, mà lại
không thấy rõ sự so sánh giữa chúng với nhau. Người ta cũng gọi
đó là ví ngầm, cái đem dùng làm ví là dụ thể, cái được ví tức là
được nói đến là dụ chỉ. Trong văn học ẩn dụ là hình thức tu từ
nhằm phát hiện cái tương đồng giữa hai sự vật khác lạ. Hai sự vật
dụ thể và dụ chỉ càng khác xa nhau bao nhiêu thì ẩn dụ càng gây
ấn tượng bấy nhiêu. Đó là ẩn dụ có giá trị nhận thức, phát hiện.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng ẩn dụ ở phương Tây thiên về giá
trị nhận thức, còn ẩn dụ trong văn học phương Đông thiên về giá
trị biểu cảm(2).
Truyện Kiều là tác phẩm văn học cổ điển thời trung đại, ẩn dụ của
nó nằm trong quỹ đạo thi ca phương Đông. Ở đây ẩn dụ ít có giá
trị nhận thức, phát hiện mà nặng về giá trị biểu cảm. Ẩn dụ biểu
cảm có loại thể hiện cảm xúc nhất thời, thoáng qua. Có loại cảm
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

xúc hằng thường. Chính vì nặng về giá trị biểu cảm hằng thường
mà người ta thường sử dụng những ẩn dụ quen thuộc như là sáo
ngữ. Nguyễn Du có những ẩn dụ biểu cảm độc đáo, nhưng vẫn có
cội nguồn trong thơ văn Trung Quốc:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
Hình ảnh ngầm ví hoa lựu với lửa lập lòe làm nhớ tới câu thơ của
Dĩu Tín “Sơn hoa diệm hỏa nhiên” hay câu thơ “Sơn thanh hoa
dục nhiên” của Đỗ Phủ. Song ở đây cũng như hoa trong Truyện
Kiều có xu hướng cụ thể hóa trong khi tả cảnh: lửa lựu, cũng như
hoa lê, hải đường …. hoa lửa từ tính chất chuyển thành trạng thái,
động tác.
Như khi tả tình Thúc Sinh:
Mày ai trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.
Câu này có thể gợi nhớ câu thơ Trung Quốc “Sơ nguyệt như mi”
nhưng đã chuyển từ so sánh tả cảnh khách quan sang ẩn dụ chủ
quan để miêu tả tình cảm Thúc Sinh. Nhìn trăng mà liên tưởng tới
nét cong của lông mày người đẹp, rồi nhớ tới phấn hương ngày
nào, thật là tinh vi.
Khi Từ Hải ra đi:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hoặc khi Kiều nhớ Từ Hải:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
hình ảnh đều rất đẹp, khi thì khí phách, khi thì mênh mang, tuy có
vận dụng hình ảnh của Trang Tử.
Khi tả tiếng đàn bạc mệnh với hai ẩn dụ mà ẩn dụ thứ hai rất mới
mẻ:
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Hình ảnh này cũng có nguồn trong hình ảnh “khốc huyết” trong
thơ văn Trung Quốc.
Đó là ẩn dụ tuy có cội nguồn ngoại lai nhưng đều mang dấu ấn
Nguyễn Du. Nhưng nhìn chung ẩn dụ trong Truyện Kiều phần
nhiều thuộc loại “Thay thế giản đơn” một đối tượng muốn biểu
hiện bằng một đối tượng khác đẹp đẽ, cao quý, thi vị và đã được
sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại.
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

– Nàng càng giọt ngọc chứa chan
– Dòng thu như xối cơn sầu.
– Hoa cười ngọc thốt đoan trang.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
– Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
– Êm đềm trướng rũ màn tre,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
– Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương.
– Khen tài nhả ngọc phun châu.
– Nàng rằng khuảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
– Gìn vàng giữ ngọc cho hay…
Các dụ thể loại này thường được sử dụng nhiều lần, hoặc đã quen
thuộc như là sáo ngữ: tuyết trở, sương che, gió bắt mưa cầm, đá
biết tuổi vàng, đầu trâu mặt ngựa, ruồi xanh, vườn hồng, chim
xanh, nước non, bình gãy gương tan, trâm gẫy bình rơi…. Nhưng
có lẽ ta nên chưa vội kết luận là Nguyễn Du thiếu cá tính, mặc dù
đây là bút pháp cổ điển quen thuộc của Thơ Đường. Hai tác giả
Mỹ gốc Hoa là Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân nghiên cứu ngôn ngữ
nghệ thuật thơ Đường đã nhận thấy phần nhiều ẩn dụ trong thơ
Đường đều là sáo ngữ như mặt trăng thì gọi “minh nguyệt”, minh
kính, ngọc luân, người đẹp thì gọi là hoa, mắt thì gọi là thu ba,
chiến tranh thì gọi là can qua, quan hệ gắn bó thì gọi là cốt
nhục… Khi một ẩn dụ được sử dụng đi sử dụng lại quá nhiều thì
mất đi cảm giác mới lạ và trở thành sáo ngữ. Đó là đặc trưng
chung của tu từ học trung đại.Lúc này ẩn dụ được sử dụng chỉ vì
thói quen. Tuy vậy, các sáo ngữ này có tác dụng cường điệu đặc
trưng tình cảm của chúng(3). Điều này đặc biệt đúng với Nguyễn
Du, và ở đây nhà thơ đã thể hiện nét riêng của mình. Dường như
Nguyễn Du “có một cảm quan cây, trái” khi nghĩ về cuộc đời(4).
Đối với con người ở xứ sở nông nghiệp có lẽ không có cảm xúc
nào thân thiết với con người hơn là cảm xúc cây trái, hoa, cành.
Đành rằng trong thơ cổ điển dụ thể hoa thường dùng để chỉ người
đẹp, nhưng ở đây nhà thơ đã dùng để chỉ Thúy Kiều trong mọi tình
huống, khi được yêu, khi bị bán, bị hành hạ, tủi nhục. Hoa, liễu
đây đã trở thành hình tượng con người, hóa thân thành người cho
nên có người hiểu là “nhân hóa”.
– Nặng lòng xót liễu vì hoa
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

– Cành hoa đem bán vào phường lái buôn.
– Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
– Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
– Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày….
Các ẩn dụ này đã có tác dụng gợi cảm xúc thương yêu và đau xót.
Chúng không phải là ẩn dụ nhận thức mà là biểu trưng cho nhân
vật và đã trở thành những ẩn dụ biểu cảm. Các hình ảnh vàng,
ngọc, hương, hoa…. vốn là hình ảnh tôn quý, đáng được nâng niu,
và được dùng thay thế con người khi miêu tả trong các tình huống
khác nhau.
Khi Kiều bị Mã Giám Sinh chiếm đoạt:
– Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương!
Khi Kiều hối hận:
Phẩm tiên rơi đến tay hèn
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thả bẻ cho người tình chung
Khi Kiều biểu hiện vẻ đẹp:
– Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Khi Kiều được hưởng hạnh phúc:
– Hải đường mơn mởn cành tơ
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho đang!
– Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Hương càng đượm lửa càng nồng
Càng xôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.
Các ẩn dụ này không rời rạc, riêng lẻ, mà là một chùm, một tập
hợp thể hiện một hiện tượng đầy đặn và một cảm xúc toàn vẹn.
Nguyễn Du hầu như không dùng một từ ngữ hay một phương thức
biểu đạt riêng lẻ làm ẩn dụ, mà dùng một chuỗi các sự vật tương
đồng làm ẩn dụ, cho nên các dụ thể mất đi ý nghĩa sáo ngữ, mà
hóa thân vào dụ chỉ, khêu gợi dụ chỉ, mà con người ở dụ chỉ đó

Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

cảm nhận về cuộc đời một cách tượng trưng. Cảm nhận về sự yếu
đuối, lênh đênh, tan vỡ:
– Bây giờ trâm gẫy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
– Rõ ràng hoa rụng hương bay.
– Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
– Vì ai rụng cải rơi kim
Để ai bèo nổi mây chìm vì ai.
– Rằng tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
– Rộng thương cỏ nội hoa hèn
– Đã đành túc trái tiền oan
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi
– Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
– Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
– Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng gió hãi hùng cỏ hoa.
Các hình ảnh bọt bèo, bến nước, nước chảy hoa trôi, cỏ nội hoa
hèn, rụng cải rơi kim hô ứng với các hình ảnh một hạt mưa rào,
con ong cái kiến, nhện này tơ kia, thân lươn lấm đầu, kiến bò
miệng chén, con tằm đến thác, mạt cưa mướp đắng, kẻ cắp bà
già, thăm ván bán thuyền…. đã tạo nên một cảm quan rất dân
tộc. Những hình ảnh sóng gió, mưa gió, mặt nước cánh bèo, nước
sa, bèo nổi mây chìm… gợi ra một môi trường sông nước, gió bão,
mưa lụt mà người Việt Nam rất quen thuộc. Đồng thời các hình
ảnh sáo trong thơ Đường hòa trộn với hình ảnh của tục ngữ thành
ngữ, làm nên chất lượng mới cho ngôn ngữ văn học tiếng Việt.
Các hình ảnh ẩn dụ trong Truyện Kiều cho thấy một đặc điểm là
từ hàng loạt hình ảnh sáo mòn Nguyễn Du đã tạo thành những
hình ảnh gợi cảm. Người xưa thường nói “hóa trần hủ thành thần
kì” (biến cũ nát thành thần kì) chính là như vậy. Như chúng tôi đã
phân tích, đó là do nhà thơ dùng từng cặp, từng chuỗi dụ thể và
truyền vào đó một cảm quan dân tộc, từ cảm quan cây trái, hoa
lá, đến cảm quan mưa gió, lênh đênh, từ cảm quan quí phái, trang
nhã đến cảm quan sinh hoạt hương thôn phàm tục. Đó chính là
cảm quan của Nguyễn Du, là cá tính của Nguyễn Du. Ẩn dụ được
nói ra từ trong cảm nhận sâu thẳm của tâm hồn người, cho nên
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

mỗi ẩn dụ có một sức nặng tình cảm. Văn chương hay không chỉ
do hình ảnh mới lạ mà còn do tình cảm. Mà nói đến tình cảm thì
phải nói tới chiều sâu của tình cảm đó. Hêghen từng nói đại ý mọi
người ai vào nhà thờ cũng làm dấu thánh giá và nói “Amen”.
Nhưng có người nói Amen như bắt chước người khác, có người nói
như thói quen hút thuốc, ăn trầu, có người từ niềm tin mê muội,
có người nói từ tất cả sự chiêm nghiệm cuộc đời đầy đau khổ.
Do vậy, chiều sâu tình cảm khác nhau rất xa. Những ẩn dụ của
Nguyễn Du đều dồn nén tình cảm thật sự.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rũ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Tác giả (và nhân vật) đã để tất cả niềm vui nỗi đau đích thực của
mình vào trong các ẩn dụ ấy. Có thể nói đó không chỉ giản đơn là
ẩn dụ mà còn là sinh dụ, hoạt dụ, tình dụ.
Những ẩn dụ quen thuộc làm người đọc không cần giải mã ẩn dụ,
mà tức khắc chuyển sang đồng cảm. Loại ẩn dụ này là một yếu tố
tạo thành văn bản “dễ đọc” cho công chúng. Người ta có thể đọc
Truyện Kiều như đọc ca dao rất đỗi thân thuộc, gần gũi.
Tất nhiên trong Truyện Kiều cũng có những ẩn dụ khô khan như:
– Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Hoặc: Khen: Tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này.
Hoặc Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Đó là những chỗ lời nói nhân vật chưa được tự nhiên do mới tiếp
xúc với nhau buổi đầu, mới có tính cách xã giao, đưa đẩy hoặc do
nhà văn có vẻ tán tụng nhân vật của mình, chứ chưa sống vào
tâm hồn nhân vật.

Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Ẩn dụ trong Truyện Kiều cũng đồng chất với so sánh trong Truyện
Kiều, là so sánh biểu cảm, chứ không phải so sánh nhận thức.
Chẳng hạn:
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi
Do đó chúng tôi tạm thời không xem xét riêng.
Nghiên cứu ẩn dụ trong Truyện Kiều có thể thấy rằng Nguyễn Du
như các nhà thơ trung đại nói chung, không có dụng ý đi tìm ẩn
dụ hoàn toàn mới mẻ mà là dùng một cách mới, sáng tạo lại các
ẩn dụ, so sánh…. đã có trong thi văn truyền thống. Ông đã tiếp
nhận kiểu ẩn dụ trong thơ Đường và trong tục ngữ, ca dao theo
hướng ẩn dụ biểu hiện tính chất và biểu cảm làm cho lời văn
Truyện Kiều thêm thi vị và chứa chan tình cảm.

CHỊ EM THÚY KIỀU
Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi:
“Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân
Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt
Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong
thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới
thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân
thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu
sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ
thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu
thương biết nhường nào!
“Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt dến
trình độ điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút
pháp ước lệ mà vẫn giúp người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai
chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, để lại một ấn tượng khó phai trong lòng mỗi chúng
ta.

Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu
giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
“Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của Nguyễn
Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng
về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho
đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên
qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông
chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao,
duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết.
Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của bức
tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm
mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp
không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những
vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt
đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn
mười”. Điều ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao độ của nhà thơ bởi lẽ ở đời mấy ai
được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn
thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp
rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình
cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi
người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người.
Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ.
“Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ
trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ
đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng
cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt
tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như
con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa,
giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối

Nhóm fb:Tài liệu ôn HSG văn 6.7.8.9

Đình Vương LH: 0988 126 458

những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một
từ “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của
Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen
óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn
hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều
diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những báu vật tinh khôi,
trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò,
chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô
gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ
chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”.
Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng
thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc hậu, quý
phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã giúp ta
nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh.
Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc
đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm
về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả
dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải
là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên
dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ
hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân
làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ
hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy
Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ
cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại
trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về. Đặc biệt, sức gợi của
vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du
dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như
sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mùa
xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh sáng và làn sóng xao
động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm.
Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức
nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh
đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ
Tài liệu ôn HSG Ngữ văn 6.7.8.9

đầy đủ các khối