Đề nghị luận văn học Người lái đò sông Đà
Nội dung tài liệu
Tải xuốngCác tài liệu liên quan
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
VẤN ĐỀ 1: SÔNG ĐÀ HUNG BẠO
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 186,187)
DÀN BÀI CHUNG
I. MỞ BÀI
Nếu phải tìm bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Bởi chỉ khi đến với văn chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được thể hiện quan niệm của chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai điệu cảm xúc với nhiều cung bậc. Và tác giả A đã để tác phẩm B của mình là nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học, đặc biệt là đoạn trích sau đã cho ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân…
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung
- Nhà văn Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ, là người suốt đời đi tìm, sáng tạo cái đẹp. Với khát khao đi tìm những vẻ đẹp phi thường, Nguyễn Tuân đã tìm đến thể tùy bút như một tất yếu.
- “Người lái đò Sông Đà” là một tùy bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, rút từ tập “Sông Đà” (1960), là thành quả nghệ thuật đẹp của Nguyễn Tuân sau chuyến đi hào hứng và gian khổ lên vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Cảm hứng chủ đạo của thiên tùy bút là cảm hứng ngợi ca về thiên nhiên, con người lao động trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Trong đó, nhà văn đã phát hiện, ca ngợi được chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc qua hình tượng sông Đà. Đây là hình tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách tùy bút của nhà văn.
Vị trí đoạn văn và hình tượng sông Đà:
- Đoạn trích trên thuộc phần đầu của tác phẩm được tác giả tập trung khắc họa vẻ hung bạo, hùng vĩ của Sông Đà ở thượng nguồn qua những cảnh bờ đá dựng vách thành, cảnh sóng nước quãng mặt ghềnh Hát Loóng và cảnh những cái hút nước trên Sông Đà.
- Đoạn trích mở đầu cho cảm xúc của nhà văn trong hành trình ca ngợi và khám phá về sông Đà, về thiên nhiên Tây Bắc. Đây cũng là mở đầu cho tính cách hung bạo của dòng sông và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
2. Phân tích
Ca ngợi sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà qua cảnh bờ đá vách thành
- Nguyễn Tuân rất ấn tượng trước những khung cảnh hùng vĩ của sông Đà và thiên nhiên Tây Bắc. Ngay từ câu văn mở đầu thể hiện rõ cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp đó của sông Đà: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá”.
+ Thể tùy bút giúp nhà văn được phóng bút tự do, thể hiện phong phú cảm xúc chủ quan của mình. Chẳng thế mà Nguyễn Tuân đã mở đầu đoạn văn bằng lời khẳng định về vẻ đẹp “hùng vĩ” của sông Đà…
+ Câu văn giới thiệu những thác đá hùng vĩ vừa mở ý để nhà văn ca ngợi vẻ đẹp sông Đà…
Tạo ấn tượng, lôi cuốn người đọc.
- Sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là “những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. “Vách thành” chứ không phải là “thành vách” bởi “vách thành” mới chính là vách đá kiên cố, đồ sộ, uy nghiêm, chứa đầy bí mật của thành cao hào sâu hun hút…
- Ở vách thành ấy, “chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Câu văn chỉ cần đọc lên cũng đủ để người ta hình dung được chiều cao, độ sâu và độ hẹp của 2 bên bờ đá sông Đà.
- Để người đọc hình dung rõ hơn sự hùng vĩ ấy, Nguyễn Tuân tiếp tục liên tưởng “có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Bờ đá sông Đà được liên tưởng rất gần gũi, gắn liền với con người…
- Để tăng tính thuyết phục, để giúp người đọc cảm nhận về bờ đá sông Đà cụ thể nhất, nhà văn hình dung “đứng bên này bờ nhẹ ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Sử dụng 1 loạt những liên tưởng, so sánh vừa gần gũi, vừa độc đáo đã giúp người đọc như đang tận mắt được chứng kiến, chinh phục bờ đá sông Đà hoang sơ, hùng vĩ...
Trong các câu văn này, tác giả kết hợp sử dụng các động từ mạnh “chẹt”, “ném”, “vọt”… nhấn mạnh sự hùng vĩ, dữ dội của bờ sông, vách đá.
- Ở vách thành ấy, “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Lạnh bởi đá ở đây sừng sững, sắc như dao hoặc cũng vì dưới chân đá toàn là nước…Hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u, lạnh lẽo…
- Câu văn tạo cảm giác gai ghê, ớn lạnh như đang lạc vào một trận đồ bát quái của sông nước Đà giang khúc thượng nguồn.
- Nếu có đứng ở đó mà ngóng lên sẽ giống như “đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nguyễn Tuân đã tô thêm cảm giác lạnh lẽo, tối tăm như chưa có hơi ấm của sự sống.
=> Cảnh sông Đà được hiện lên với đầy đủ đặc tính, “khí chất” của nó, nổi hình, nổi nét… khắc họa chiều sâu hun hút, hùng vĩ, hiểm trở của những vách đá dựng đứng 2 bờ sông Đà.
Sông Đà hung bạo với cảnh tượng dữ dội và âm thanh hùng vĩ của sóng nước quãng mặt ghềnh Hát Loóng
- Nhà văn nhắc đến địa danh “mặt ghềnh Hát Loóng” để chứng tỏ ấn tượng mạnh mẽ của nhà văn khi nhắc đến sóng nước quãng sông này. Ngay cả tên gọi khi đọc lên, người ta cũng phần nào hình dung được sự hung bạo, dữ dội của sóng nước, của thiên nhiên Tây Bắc.
- Như để thay đổi “thực đơn” cho người đọc khi khám phá về sông Đà, tác giả miêu tả về hình ảnh sóng nước qua chiều dài “cây số nước”. Sóng nước đang nối dài, cuồn cuộn tuôn chảy.
+ Trong câu văn, Nguyễn Tuân sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc “nước xô đá”, “đá xô sóng”, “sóng xô gió” lặp lại liên tiếp bởi động từ mạnh “xô”, kết hợp với những thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ, dữ dội.
+ Từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” kết hợp với nhau như mô phỏng những con sóng chồm lên nhau theo cả chiều ngang, vút lên theo chiều dọc, rồi đổ ập xuống ghê rợn trên mặt sông.
+ Câu văn dài, ngắt nhịp ngắn, nhanh, mạnh, khẩn trương, dồn dập, sóng nước như vừa xô đẩy, vừa hợp sức với gió, với đá, khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dội. Nhà văn đã đánh thức mọi cảm xúc, giác quan của người đọc khi khám phá về sông Đà.
+ Tác giả còn sử dụng nghệ thuật so sánh, coi sông Đà “như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”, mang tâm tính như con người và giống như một kẻ chuyên đi đòi nợ thuê dữ dằn, gắt gao, tàn bạo.
- Quả thật, sông Đà tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào chủ quan, khinh suất. Đó là minh chứng thuyết phục cho bản tính hung bạo của sóng nước nơi mặt ghềnh. Sông Đà hùng vĩ là hiện thân của thứ kẻ thù số 1, là thử thách to lớn cho con người.
=> Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự am hiểu tường tận và niềm say mê khi miêu tả về sóng nước sông Đà. Nhà văn đã giúp người đọc như được nhìn, được nghe, được cảm nhận bằng tất cả giác quan về sông nước. Đó cũng là sự tinh tế, tài hoa của Nguyễn Tuân khi vết về thiên nhiên, đất nước.
Sông Đà hung bạo với cảnh những cái hút nước.
- Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: “trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.” Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa “như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ. Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái bị sặc nước.
- Rồi nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
- Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.
- Cho cảm giác thật đến từng mi-li-mét nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn.
=> Phải có sự am hiểu về kiến thức trong nhiều lĩnh vực thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn.
- Nhận xét: Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bất sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.
3. Đánh giá chung
a. Nghệ thuật
- Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng sáng tạo nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng phong phú, gần gũi, sáng tạo, vận dụng nhiều kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau…
- Khả năng quan sát rất tinh tế nhưng cũng rất chân thật…tạo nên sự sống động cho hình tượng sông Đà.
- Những câu văn trùng điệp, liên hoàn, nhịp văn ngắn, tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, vừa gợi ấn tượng âm thanh mạnh mẽ, vừa khắc họa sự hung bạo của thác đá, sóng nước.
- Sử dụng các động từ, tính từ một cách linh hoạt và tài tình tạo nên những trang văn tuyệt bút ca ngợi vẻ đẹp phi thường, hùng vĩ của Đà giang.
- Giọng văn linh hoạt, vừa mạnh mẽ, dữ dội, vừa đầy chiều sâu kiến thức lẫn chiều sâu của ngôn ngữ văn chương.
Sông Đà đã trở thành kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, uyên bác và phong cách tùy bút độc đáo của Nguyễn Tuân.
b. Nội dung
Đoạn trích rất đặc sắc, làm nổi bật hình tượng sông Đà hùng vĩ, hung bạo. Từ đó, Nguyễn Tuân khẳng định tình cảm yêu mến, gắn bó thiết tha với sông Đà, với thiên nhiên Tây Bắc của người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
4. Nhận xét (theo yêu cầu của từng đề)
III. KẾT BÀI:
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một áng văn chương tuyệt đẹp của Nguyễn Tuân, cũng như văn học hiện đại. Nguyễn Tuân ca ngợi về Sông Đà là tìm được cái đẹp chất vàng đích thực của thiên nhiên Tây Bắc, cũng như thiên nhiên đất nước. Ca ngợi về sông Đà, với Nguyễn Tuân còn là hành trình của sự sáng tạo nghệ thuật, ngôn từ. Ông chứng tỏ cây bút bậc thầy về ngôn từ, “nhà quốc ngữ tài hoa” trên mỗi trang văn. Nhà văn đã đem đến cho người đọc những khám phá mới mẻ, những vẻ đẹp kỳ thú về thiên nhiên, đất nước. Để rồi, ta thêm yêu mến và tự hào về quê hương, đất nước của mình
ĐỀ 1: Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích dưới đây. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. |
---|
Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
- Biểu hiện: Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh đầy ấn tượng.
- Ý nghĩa: Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm và độc đáo ở phong cách, tri thức sâu sắc và phong phú, tâm hồn phóng khoáng yêu tự do và thiên nhiên đất nước, luôn nhìn thấy ở thiên nhiên những vẻ đẹp chưa từng có và tiếp cận thiên nhiên ở những góc nhìn độc đáo. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
ĐỀ 2: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó hãy nhận xét về cái tôi trữ tình của nhà văn. |
---|
Nhận xét về cái tôi trữ tình của nhà văn.
- “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.
- “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
- “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.
ĐỀ 3: Phân tích vẻ đẹp con Sông Đà hung bạo ở miền Tây Bắc của Tổ quốc trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc. |
---|
Bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc
- Nguyễn Tuân đến Sông Đà với mục đích trước tiên là tìm chất vàng của thiên nhiên. Đằng sau những biểu hiện hung bạo của Đà giang, nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp hoang dại, hùng vĩ và tiềm năng thủy điện to lớn của Sông Đà. Khi nghĩ đến những tuyếc - bin thủy điện, có lẽ nhà văn đã dự cảm được vị trí, vai trò của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
- Dưới cái nhìn của Nguyễn Tuân, thiên nhiên không thuần túy là thiên nhiên, mà thiên nhiên cũng là một sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Vì thiên nhiên chính là phông, nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp con người - người lái đò trên dòng sông hung bạo.
ĐỀ 4: Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. … bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn. (Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân) Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. |
---|
Nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà.
- Ý nghĩa: Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
VẤN ĐỀ 2: SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách.Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.[…].
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 190,191)
DÀN BÀI CHUNG
I. MỞ BÀI
Nếu phải tìm bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ chọn văn chương. Bởi chỉ khi đến với văn chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được thể hiện quan niệm của chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai điệu cảm xúc với nhiều cung bậc. Và tác giả A đã để tác phẩm B của mình là nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu của văn học, đặc biệt là đoạn trích sau đã cho ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân…
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung
- Nhà văn Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ, là người suốt đời đi tìm, sáng tạo cái đẹp. Với khát khao đi tìm những vẻ đẹp phi thường, Nguyễn Tuân đã tìm đến thể tùy bút như một tất yếu.
- “Người lái đò Sông Đà” là một tùy bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, rút từ tập “Sông Đà” (1960), là thành quả nghệ thuật đẹp của Nguyễn Tuân sau chuyến đi hào hứng và gian khổ lên vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Cảm hứng chủ đạo của thiên tùy bút là cảm hứng ngợi ca về thiên nhiên, con người lao động trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Trong đó, nhà văn đã phát hiện, ca ngợi được chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc qua hình tượng sông Đà. Đây là hình tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách tùy bút của nhà văn.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: Đoạn trích trên thuộc phần đầu của tuỳ bút. Sau khi nhà văn thể hiện vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà, ông tiếp tục hướng đến vẻ đẹp trữ tình của con sông. Trong đoạn trích trên, Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn toàn diện nhất. Đoạn văn đầu tiên, tác giả quan sát từ điểm nhìn trên cao, Sông Đà có vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, yêu kiều. Đoạn văn sau, tác giả quan sát con sông từ điểm nhìn gần hơn – điểm nhìn của một người đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông, Sông Đà gợi cảm, Sông Đà “như một cố nhân”. Với vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng, nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ.
2. Phân tích
a. Đoạn văn 1:
- Trước hết, từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà có hình dáng như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ấn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.
- Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bỗng nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng.
- Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang. Nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông. Ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Bằng con mắt rất tinh tế, Nguyễn Tuân đã phát hiện được những góc nhìn mà ở đó, dòng sông đã phô ra được tất cả vẻ đẹp trẻ trung, mềm mại, thướt tha của mình. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân : giữa hai chữ “tuôn dài tuôn dài” thường sẽ có dấu phẩy, nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để bản thân câu chữ cũng có khả năng tạo hình và tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, dàn trải, cái mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Ngoài ra trong câu văn này còn có thể nhận thấy tác giả sử dụng rất nhiều vần bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng, êm đềm của dòng sông Đà ở hạ nguồn. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa” trong văn học Việt Nam.
- Không chỉ vậy, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô”. “Xanh ngọc bích ” là xanh trong, xanh sáng - một sắc màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà. Nó không thay đổi dồn dập như màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím ” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông Hồng. Chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu”.
b. Đoạn văn 2:
- Ở đoạn văn sau này, tác giả quan sát con sông từ điểm nhìn gần hơn – điểm nhìn của một người đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông, Sông Đà gợi cảm, Sông Đà “như một cố nhân”. Tác giả dùng 1 từ ngữ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là “cố nhân”. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa từ “cố nhân” còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu.
- Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy, khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ 1 người bạn thân thiết. Như vậy, quan hệ giữa Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ . Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người.
- Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ của Nguyễn Tuân. Trước hết, đó là câu văn: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, vừa gợi ra niềm vui háo hức say mê, vừa gợi ra những bước chân nhanh vội của tác giả để đến với dòng sông của mình. Cụm từ “Sông Đà” được điệp lại liên tiếp 3 lần ở 3 vế của câu văn gợi ra được trái tim nồng nhiệt, ấm nóng đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại những biểu hiện dù là nhỏ bé, giản dị nhất của sông Đà như: bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm bướm. Các vế câu lại được khéo léo sắp xếp để vế sau dài hơn vế trước cho thấy sự tăng cấp, sự hối hả dồn dập trong niềm vui vỡ òa của tác giả, khiến cho câu văn không còn là câu mô tả bình thường mà đã trở thành những tiếng reo vui.
- Niềm vui của tác giả còn được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là 2 hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì thông thường những giấc mơ khi đã đứt thì rất khó nối lại được. Việc nối lại những giấc chiêm bao đứt quãng vừa là những trường hợp rất hi hữu, vừa vô cùng quý giá.
- Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn tượng của con sông từ điểm nhìn trên cao và từ điểm nhìn của người đi bộ đường rừng ra bắt gặp bờ bãi Sông Đà. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu ” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Đó là cái nắng Đường thi ấm áp và tràn ngập sự sống của mùa xuân. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
3. Đánh giá chung
- Về nội dung: Như vậy, để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân
- Về nghệ thuật: Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, nhân hoá, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mĩ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
4. Nhận xét (theo yêu cầu của từng đề)
III. KẾT BÀI: Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một áng văn chương tuyệt đẹp của Nguyễn Tuân, cũng như văn học hiện đại. Nguyễn Tuân ca ngợi về Sông Đà là tìm được cái đẹp chất vàng đích thực của thiên nhiên Tây Bắc, cũng như thiên nhiên đất nước. Ca ngợi về sông Đà, với Nguyễn Tuân còn là hành trình của sự sáng tạo nghệ thuật, ngôn từ. Ông chứng tỏ cây bút bậc thầy về ngôn từ, “nhà quốc ngữ tài hoa” trên mỗi trang văn. Nhà văn đã đem đến cho người đọc những khám phá mới mẻ, những vẻ đẹp kỳ thú về thiên nhiên, đất nước. Để rồi, ta thêm yêu mến và tự hào về quê hương, đất nước của mình
ĐỀ 1: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về chất thơ trong đoạn trích. |
---|
Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích:
* Khái niệm:
- Chất thơ hay còn gọi là “thi vị” tức là có tính chất gợi cảm và gây hứng thú trong thơ. “Chất thơ” có thể hiểu là một khía cạnh của cảm hứng thẩm mĩ nhân văn, phải gắn với cái đẹp. Cái đẹp có thể là do tự nhiên mang lại như cảnh mây trắng nhởn nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm, tạo ra cảm giác dễ chịu cho người ngắm nhìn. Hoặc, “chất thơ” cũng có thể tạo ra từ những tình cảm, hành động của con người như: Sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa...” (Đỗ Lai Thúy)
- Nói một tác phẩm văn xuôi có chất thơ tức là những ý văn, câu văn, đoạn văn tạo nên sự rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người và nó có khả năng truyền những rung cảm ấy đến với người đọc. Ở văn xuôi chất thơ có ở trong nhiều cấp độ: từ ngữ; bức tranh thiên nhiên; hình tượng nhân vật vượt lên trên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh để hướng đến vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn.
* Biểu hiện chất thơ trong đoạn trích thể hiện:
+ Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói.
+ Vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên của đôi bờ biền bãi.
+ Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt;...
+ Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm.
* Ý nghĩa: Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung phong cách tài hoa, uyên bác của ông. Với tài năng nghệ thuật của một nhà văn, đôi mắt của một họa sĩ và sự nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu cái đẹp, ưa “xê dịch” kết hợp sự liên tưởng phong phú, độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông đầy cá tính, mang tính cách của con người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ tình. Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp - chất vàng thiên nhiên Tây Bắc để ca ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã ban tặng cho con người. Đó cũng chính là tình yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
ĐỀ 2: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích sau: |
---|
Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích:
- Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của Tây Bắc; cái tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.
- Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút phóng túng
=> Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân:
- Cái tôi tài hoa nghệ sĩ – suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp
- Cái tôi luôn có cảm hứng mãnh liệt với những cái tuyệt mĩ
- Cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước
ĐỀ 3: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: |
---|
Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông Đà, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước thiết tha của mình.
- Qua đó làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: sự độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp:
+ Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện thẩm mĩ (cái đẹp): Tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, còn người lái đò như một nghệ sĩ trong việc vượt thác ghềnh.
+ Nét tài hoa, uyên bác: Nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, quân sự… để viết về con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng. Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của sông Đà. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”…
Nét độc đáo của tùy bút Nguyễn Tuân tạo nên những trang viết độc đáo giàu giá trị nghệ thuật cao.
ĐỀ 4: Trình bày cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong đoạn trích sau. Từ đó bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả Sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân. |
---|
Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt.
- Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.
ĐỀ 5: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân. |
---|
Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân:
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn. Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo những kì công của tạo hóa.