Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

100 đề tập làm văn lớp 9

d41d8cd98f00b204e9800998ecf8427e
Gửi bởi: Thành Đạt 28 tháng 10 2020 lúc 13:35:47 | Được cập nhật: 25 tháng 3 lúc 8:27:04 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 327 | Lượt Download: 14 | File size: 1.118208 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

100 ĐỀ VÀ BÀI NGỮ VĂN LỚP 9
ĐỀ SỐ 1
Theo em, Phong cách Hồ Chí Minh có phải là một văn bản thuyết minh không ? Vì sao ?
DÀN Ý
I. Mở bài
- Phong cách Hồ Chí Minh vận dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, trong đó thuyết minh
là phương thức biểu đạt chính.
- Bài viết giúp người đọc hiểu được phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa truyền
thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, thanh cao và giản dị.
II. Thân bài
Tính chất thuyết minh của Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện ở những khía cạnh sau :
1. Đối tượng thuyết minh của bài là một vấn đề trừu tượng: phong cách của Bác Hồ. Vẻ đẹp
trong phong cách của Bác được trình bày rõ trên hai phương diện cơ bản :
a) Bác luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên một nhân cách, một lối
sống rất Việt Nam, rất phương Đông nhưng cũng rất mới, rất hiện đại.
b) Bác có lối sống vô cùng giản dị nhưng lại rất thanh cao, tiêu biểu cho nét đẹp trong lối sống
của dân tộc Việt Nam.
2. Phong cách Hồ Chí Minh được trình bày, giới thiệu một cách chính xác, khách quan bằng
những dẫn chứng, tư liệu cụ thể, xác thực, không phải do hư cấu, do tưởng tượng mà ra.
3. Bài viết đã sử dụng các phương pháp của văn bản thuyết minh như : phương pháp phân loại,
phân tích (các khía cạnh, các phương diện, các biểu hiện của vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh
về văn hoá, lối sống...); phương pháp liệt kê (những nơi Bác đã qua như châu Phi, châu Á, châu Mĩ,
châu Âu; những ngoại ngữ mà Người thành thạo (tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga...); phương pháp so
sánh (lối sống giảng dị của Bác với các vị hiền triết Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm)...
4. Bài viết có sử dụng các yếu tố nghệ thuật như kể chuyện, bình luận, nghệ thuật đối lập, văn
viết có cảm xúc, nhưng tất cả những yếu tố này chỉ có vai trò phụ trợ. Nội dung giá trị cơ bản của
văn bản này vẫn là những tri thức xác thực, khách quan về phong cách Hồ Chí Minh.
III. Kết bài
- Phong cách Hồ Chí Minh là một văn bản nhật dụng, thuyết minh là một trong những phương
thức biểu đạt chính.
- Bài viết đã giúp người đọc hiểu được vẻ đẹp phong cách Bác Hồ là sự kết hợp hài hoà giữa
bản sắc văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, là sự giản dị một cách thanh cao.
- Bài viết làm cho chúng ta thêm tự hào, kính yêu Bác, khơi gợi ở chúng ta ý nguyện học tập, tu
dưỡng, rèn luyện theo gương của Bác.
ĐỀ SỐ 2
Dựa vào văn bản Phong cách Hồ Chí Minh, kênh hình trang 6 (Ngữ văn 9 - Tập I) và những
hiểu biết của em, em hãy viết một văn bản thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật để giới
thiệu về nơi ở và làm việc của Bác tại phủ Chủ tịch.
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Kiểu bài : Thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
- Yêu cầu : Thuyết minh, miêu tả, giới thiệu nơi ở và làm việc của Bác, chủ yếu là ngôi nhà sàn
nơi Bác ở.
II. DÀN Ý
A. Mở bài
- Nếu có dịp được đến Hà Nội, vào lăng viếng Bác, bạn hãy đừng quên viếng thăm ngôi nhà
sàn đơn sơ nhỏ bé, nơi vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống và làm
việc nhiều năm ở đó.
- Đến đây, bạn sẽ thêm hiểu, thêm tự hào và kính yêu một con người vĩ đại mà vô cùng bình dị
đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một huyền thoại.
B. Thân bài

-

1

-

1. Địa điểm, không gian: Nơi ở và làm việc của Bác nằm giữa một khuôn viên yên tĩnh thơm
ngát hương hoa.
a) Trước nhà Bác ở là một cái hồ thả cá. Một hàng rào râm bụt chạy quanh trước ngõ như ở quê
nhà Nghệ An của Bác. Bác sống hoà mình với thiên nhiên, với đất trời, với quê hương.
b) Xung quanh nhà Bác trồng rất nhiều loài cây và hoa. Hoa cam, hoa bưởi tháng ba thơm ngào
ngạt; hàng dừa xoè bóng mát trên những lối đi; cây vú sữa, quà của đồng bào miền Nam tặng Bác
được trồng ở hiên sau nhà; góc vườn trước nhà, bốn mùa rau nối nhau tươi tốt.
2. Hình dáng ngôi nhà : Nơi Bác ở và làm việc là một ngôi nhà gác nhỏ được thiết kế như kiểu
nhà sàn của đồng bào Việt Bắc. Nhà làm bằng gỗ, mái lợp ngói, bốn bề lộng gió.
3. Diện tích sử dụng : Khoảng hơn 70 m 2. Ngôi nhà sàn đó chỉ có vẻn vẹn vài phòng để tiếp
khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ.
4. Đồ đạc trong nhà hết sức mộc mạc, đơn sơ :
a) Phòng họp, phòng tiếp khách chỉ có một bộ bàn ghế, lọ hoa, bộ ấm chén uống nước.
b) Phòng làm việc có một bộ bàn ghế nhỏ, một chiếc máy chữ, một chiếc đài phát thanh Liên
Xô cũ để Bác nghe tin tức, đặc biệt tin từ miền Nam và giúp Bác đỡ cảm thấy cô quạnh trong đêm
vắng...
c) Đến thăm phòng ngủ của Bác càng thương Bác hơn: chiếc giường nhỏ bằng gỗ thường, mộc
mạc không mùi sơn, trên trải chiếu cói, một chiếc gối vải đã sờn cũ. Trên gối, chiếc quạt nan nằm
lặng lẽ. Chiếc quạt nan này đã từng thức cùng vị Chủ tịch trong bao đêm hè oi ả, lòng nặng những
lo toan việc nước. Góc phòng, bộ quần áo kaki bạc màu giản dị được treo gọn gàng trên móc áo.
Trên ngực áo không có một tấm huân chương, nhưng bên trong lần áo vải là một trái tim nóng
bỏng, sáng ngời. Dưới chân giường, đôi dép cao su mòn gót xếp ngay ngắn. Đôi dép ấy đã từng
theo chân Bác đi suốt ngàn dặm đường đất nước.
5. Bác sống ở đó, một mình, với một tư trang ít ỏi, một chiếc vali con với vài vật kỉ niệm của
một cuộc đời dài, rộng và bất tử.
C. Kết bài
- Nơi ở của Bác, vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, đơn sơ, giản dị như câu chuyện
về một vị thần tiên trong thần thoại, cổ tích.
- Nơi ở của Người là do chính Người lựa chọn, sự lựa chọn ấy giúp chúng ta hiểu thêm phong
cách Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
ĐỀ SỐ 3
Em hãy đóng vai là những đồ dùng cá nhân của Bác tự giới thiệu về mình.
BÀI LÀM
Bác Hồ đã yên nghỉ, nhưng ngày ngày, dòng người vào lăng viếng Bác vẫn nối dài từ sáng đến
chiều. Đến thăm nhà Bác ở, người ta trầm ngâm trước từng di vật đơn sơ, mộc mạc đã gắn bó với
Bác trong suốt cả cuộc đời. Dường như đoán biết được ý nghĩ, lòng mong muốn của đồng bào, du
khách, những đồ vật đã cất lên tiếng nói tự giới thiệu về mình để du khách hiểu thêm về Bác. Chúng
ta hãy cùng nghe họ tự thuật nhé.
- Chúng tôi là những đồ dùng cá nhân của Bác Hồ. Chúng tôi được sống bên Bác, được phục
vụ, chăm sóc Bác và được Bác yêu mến nâng niu như những đứa cháu nhỏ. Chúng tôi gồm : quần
áo, giày dép, mũ nón... Chúng tôi sống rất hoà thuận, luôn bên nhau và luôn bên Bác.
Tôi thuộc dòng họ Quần Áo. Họ hàng nhà chúng tôi có hai loại vải được Bác thường dùng là
vải ka ki màu trắng đục và vải lụa màu nâu. Áo ka ki cúc cài kín cổ, vạt buông, có bốn túi lớn, hai
túi trên ngực và hai túi ở hai vạt trước. Anh chàng này thường được Bác mặc khi đi công tác ở nước
ngoài, khi ngoại giao, tiếp khách, hoặc khi Bác đi dự những hội nghị, hội thảo quan trọng trong
nước và quốc tế... Còn tôi, quần áo vải nâu, được may rộng như kiểu quần áo của bà con nông dân.
Tôi được chăm sóc Bác thường xuyên hơn, được Bác mặc khi đi thăm đồng ruộng, gặp gỡ bà con
nông dân, các bạn thiếu niên nhi đồng, lúc ở nhà, khi làm việc trong phòng riêng, lúc tưới cây... Bác
thương yêu, nâng niu, đối xử với chúng tôi bằng tất cả tấm lòng của một Con Người. Có khi chúng
tôi bị sờn rách, các cô chú phục vụ định thay áo mới cho Bác, Bác biết, Bác không chịu, Bác nói vải
hãy còn mới hãy may vá lại cho Bác mặc. Chúng tôi cảm động đến nghẹn ngào trước tấm lòng và
phong cách sống vô cùng giản dị của một vị lãnh tụ.

-

2

-

Tôi thuộc họ giày dép. Cùng với quần áo, tôi cũng rất vinh dự vì luôn được đi theo Bác. Tôi
được làm bằng chất liệu cao su, màu đen, có 4 quai, hai quai chéo ở phía trên và hai quai ngang ở
phía dưới. Họ hàng chúng tôi, hàng vạn hàng triệu đôi dép như thế đã từng theo bước những chiến
sĩ, thanh niên xung phong chống Pháp rồi chống Mĩ trên khắp các chiến trường Nam Bắc. Riêng tôi
sung sướng hơn là được ở bên Bác, phục vụ, chăm sóc Bác, được theo Bác đi trên mọi nẻo đường.
Còn tôi là mũ lá. Chúng tôi tuy Bác dùng ít hơn, nhưng cũng là nhiều lắm đối với những ai
không được ở bên Bác. Họ hàng nhà mũ chúng tôi cũng có hai loại: mũ cốt vải và mũ lá. Mũ cốt vải
làm bằng vải kaki màu xanh hoặc màu trắng đục. Anh chàng này thường được Bác đội khi đi chiến
dịch, khi thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ... Còn tôi, mũ lá được làm bằng lá cọ, lá nón. Tôi được Bác
dùng khi đi xuống nhà máy, công xưởng, khi ra đồng cùng với bà con nông dân gặt lúa, tát nước
chống hạn hoặc xuống biển với ngư dân kéo lưới...
Tôi nữa, tôi là khăn len. Tuy tôi chỉ được theo Bác vào mùa đông nhưng cũng được Bác nâng
niu, yêu mến lắm. Tôi được dệt bằng sợi len, rộng chừng 30 cm, dài chừng 1,2m, hai đầu khăn thắt
tua rua bay nhè nhẹ mỗi khi gió thổi. Nếu trời không giá rét quá, tôi được Bác quàng quanh cổ Bác.
Trời lạnh, tôi được Bác choàng lên đầu. Tôi rất sung sướng vì được giúp ích cho Bác.
Chúng tôi là những đồ vật rất bình thường, mộc mạc, đơn sơ, giản dị, nhưng Bác đã chọn chúng
tôi. Không những thế, Bác còn yêu thương, gìn giữ, nâng niu chúng tôi. Điều đó làm chúng tôi vô
cùng sung sướng và hạnh phúc. Vì vậy, chúng tôi sống bên Bác, đem hơi ấm cho Người, bảo vệ
Người khỏi những cơn thất thường của thời tiết, làm mềm sỏi đá dưới những nẻo đường bàn chân
Người đi qua. Chúng tôi tuy nhỏ bé nhưng chúng tôi tự hào vì đã giúp ích cho Bác, góp phần làm
nên một phong cách Hồ Chí Minh.
Khi vào thăm nhà Bác, đứng nhìn chúng tôi, nhiều người đã khóc. Chắc họ đang nghĩ đến Bác
và cảm động trước tấm lòng bao la rộng lớn, lối sống giản dị thanh cao của Người.
ĐỀ SỐ 4
Em hãy viết một bài văn giới thiệu phong cách Hồ Chí Minh dưới dạng cuộc đối thoại giữa một
bạn học sinh trong nước và một bạn học sinh Việt kiều đang chuẩn bị vào lăng viếng Bác.
BÀI LÀM
Tại khuôn viên trước lăng Bác, có hai bạn học sinh, một bạn là Việt kiều mới về thăm quê vào
lăng viếng Bác. Họ gặp nhau, làm quen với nhau và sau đây là câu chuyện thú vị giữa họ.
- Xin chào bạn !
- Chào bạn !
- Mình tên là H. , rất vui được làm quen với bạn.
- Mình tên là M. , rất vui được làm quen với bạn.
- Mình xa Việt Nam từ năm 2 tuổi, nay mới có dịp về thăm quê, được vào lăng viếng Bác.
Mình rất muốn được hiểu thêm về Bác, về phong cách của Bác. M. có vui lòng làm hướng dẫn viên
cho mình không?
- Mình rất sẵn lòng.
- Mình được biết, Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Vậy
bạn có thể nói rõ thêm cho mình biết về tầm vóc văn hoá của Bác được không ?
- Bác Hồ không những là một vị lãnh tụ thiên tài, nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân
tộc Việt Nam mà còn là một nhà văn hoá lớn của thế giới thế kỉ XX. Hiếm có vĩ nhân nào trên thế
giới đã hội tụ được danh hiệu Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hoá thế giới như UNESCO đã
phong tặng Người. Phong cách của Bác là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại; giữa
dân tộc và nhân loại; uyên thâm nhưng lại rất Việt Nam; vĩ đại, thanh cao nhưng vô cùng giản dị.
Vẻ đẹp văn hoá chính là nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh.
- Bạn nói, Bác Hồ là một danh nhân văn hoá thế giới, uyên thâm nhưng lại rất Việt Nam nghĩa
là thế nào ? Vốn tri thức văn hoá sâu rộng của Bác đã được hình thành ra sao ?
- Trong cuộc đời yêu nước và hoạt động cách mạng của mình, Bác đã đi rất nhiều nơi, có dịp
tiếp xúc với văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây. Bôn
ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước, trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã
ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Năm 1911, Người đến Pháp,
năm 1912 - 1913 Người sống ở Mĩ, từ 1913 - 1917 ở Anh và sau đó Người lại trở lại Pháp. Đến
đâu, Người cũng ham mê tìm hiểu, học hỏi.

-

3

-

Để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, con đường quan trọng đầu tiên là phải thông thạo ngoại
ngữ. Người biết rất nhiều ngoại ngữ, nói và viết thạo nhiều thứ tiếng như tiếng Pháp, Anh, Hoa,
Nga ... Người viết báo bằng tiếng Pháp, tiếng Trung, sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Pháp, sáng tác
thơ bằng tiếng Hán. Các tác phẩm nổi tiếng của Người như: Bản án chế độ thực dân Pháp - tác
phẩm chính luận, các truyện ngắn Vi hành, Lời than vãn của Bà Trưng Trắc, Những trò lố hay là
Varen và Phan Bội Châu, tập thơ Nhật kí trong tù... không chỉ có ý nghĩa chính trị, thời sự mà còn
giàu giá trị nghệ thuật, có sức sống lâu bền trong lòng người đọc.
Trong cuộc đời cách mạng đầy gian nan vất vả, Người đã từng phải làm nhiều nghề để sống và
hoạt động cách mạng như bồi bàn, đầu bếp, viết sách báo... Nhưng cũng chính qua công việc, qua
lao động, Người đã tìm hiểu, học hỏi được rất nhiều điều bổ ích cho công tác cách mạng cũng như
để hình thành nên phong cách Hồ Chí Minh.
- Vậy phong cách Hồ Chí Minh có phải là sự tổng cộng giản đơn tinh hoa của các nền văn hoá
thế giới không ? Bác đã tiếp thu các nền văn hoá nhân loại như thế nào ?
- Ồ, câu hỏi của bạn thật là thú vị !... Có thể nói, ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu về các dân tộc
và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Người cũng học
hỏi, tìm hiểu văn hoá, nghệ thuật đến mức khá uyên thâm. Nhưng điều quan trọng là Người không
chịu ảnh hưởng thụ động mà tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá nước ngoài. Một mặt,
Người chịu ảnh hưởng của tất cả các nền văn hoá, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay; mặt khác, Người
cũng phê phán những hạn chế, tiêu cực. Những ảnh hưởng của văn hoá quốc tế đó đã nhào nặn với
cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt
Nam.
- Thật là kì diệu, một con người kì diệu !... Vậy còn lối sống, Bác sống, sinh hoạt ra sao ?
- Là một lãnh tụ có cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước nhưng Bác có một lối sống vô
cùng bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông.
Nơi ở và làm việc của Người hết sức đơn sơ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế
giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn bằng gỗ bên cạnh chiếc ao như cảnh làng quê quen
thuộc làm ''cung điện" của mình. Chiếc nhà sàn đó chỉ vẻn vẹn có vài phòng. Đó cũng là nơi tiếp
khách, họp Bộ Chính trị, đồng thời là nơi Bác làm việc và nhỉ ngơi.
Tư trang của Bác hết sức giản dị, ít ỏi : bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô
sơ đã được một tác giả phương Tây ca ngợi như một vật thần kì, một chiếc vali con đựng vài bộ quần
áo ...
Việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc. Những món ăn dân tộc không chút cầu kì như cá kho,
rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa... là thức Bác ưa thích.
Người sống trong ngôi nhà đơn sơ ấy, một mình, với một vài tư trang ít ỏi, vài vật kỉ niệm nhỏ
nhoi của một cuộc đời dài, đầy truân chuyên và giông bão cách mạng. Có lẽ, hiếm có một vị lãnh tụ,
một vị tổng thống hay một vị vua hiền ngày trước lại sống đến mức giản dị như Bác.
- Liệu lối sống giản dị quá như vậy ... có làm giảm vị thế ...
- À, mình hiểu ý bạn. Lối sống của Bác giản dị nhưng lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây
không phải là lối sống khắc khổ của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó, cũng không phải
là cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, cho hơn người mà là một quan niệm sống đẹp có cội
rễ từ các nhà hiền triết phương Đông xưa : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên.
Cách sống của Bác gợi ta nhớ đến các sống của các vị hiền triết trong lịch sử dân tộc như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ sống ở quê nhà với những thú quê đạm bạc :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...
Lối sống thanh cao đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần có khả năng đem lại hạnh phúc, sự
bình yên cho tâm hồn và thể xác con người.
Nói như một chính khách Pháp, "Hồ Chí Minh là người mang tính cách Á Đông nhất, nhưng
cũng là người cởi mở nhất với tư tưởng phương Tây". Cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh là sự
kết tinh văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ những năm 1923, khi gặp Người ở
Maxcơva, nhà thơ Xô viết Ôxíp Mandenstam đã dự cảm : "...Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ
văn hoá, không phải là văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hoá của tương lai". Năm 1990,
UNESCO tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác. Trong bài phát biểu của Tiến sĩ M. Amed,

-

4

-

giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương có đoạn : "Hồ Chí Minh đã thành công
trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hoá vào một nền văn hoá Việt Nam duy nhất. Người đã làm
được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau... Cuộc đời
của Người mang những ảnh hưởng và giá trị truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo
nên một nền văn hoá hiện đại"... Tóm lại, chúng ta tự hào vì có Bác...
- ...
- Bạn làm sao thế, bạn không được khoẻ phải không ? Bạn có cần tôi giúp gì không ?
- Không ... mình không sao, mình khoẻ... Mình đang nghĩ, mình đã được gặp một Ông Tiên. Một
Ông Tiên ngoài đời thật chứ không phải trong truyện cổ tích. Ông Tiên ấy đang ở gần đây, bên cạnh
chúng mình. Mình thật sung sướng và cảm động. Cảm ơn bạn, người đồng hành đầy hiểu biết. Bây
giờ chúng mình hãy xếp hàng vào lăng viếng Bác nhé. Mai đây, hễ có dịp, mình sẽ lại xin bố mẹ về
thăm quê, vào lăng viếng Bác. Chúng mình sẽ còn gặp lại nhau chứ ?
- Nhất định là như vậy rồi. Nào, chúng mình cùng đi gặp Tiên Ông thôi !
ĐỀ SỐ 5
Em hãy tóm tắt những luận điểm, luận cứ chính của văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà
bình.
BÀI LÀM
1. Luận điểm chính : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp đang đe doạ loài người
và sự sống trên trái đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh để loại
bỏ nguy cơ ấy.
2. Hệ thống luận cứ :
- Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu vết của sự sống trên
trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
- Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã làm mất đi cơ hội cải thiện đời sống cho hàng tỉ
người nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực xã
hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục... với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đã cho thấy
tính chất cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
- Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà mà còn đi ngược lại với
quy luật của tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.
- Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
ĐỀ SỐ 6
Dựa vào văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, em hãy viết một văn bản thuyết minh về
nguy cơ chiến tranh hạt nhân (có sử dụng yếu tố miêu tả và các biện pháp nghệ thuật).
BÀI LÀM
Chiến tranh và hoà bình luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại bởi nó liên quan đến
cuộc sống, sinh mệnh của hàng triệu con người và sự còn mất của mỗi quốc gia. Lịch sử loài người
gắn liền với nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc khiến nhân loại bao phen rơi vào cảnh máu chảy đầu rơi,
nồi da nấu thịt. Nguy cơ chiến tranh luôn đe doạ sự sống trên khắp hành tinh. Đặc biệt, ngày nay, sự
phát triển mạnh mẽ của vũ khí hạt nhân đã trở thành mối hiểm hoạ khủng khiếp nhất đe doạ toàn bộ
sự sống, loài người trên trái đất.
Trong thế kỉ XX, nhân loại đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới vô cùng khốc liệt và
nhiều cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc khác, làm thiệt mạng hàng trăm triệu người, làm bánh xe
lịch sử quay chậm lại hàng trăm năm. Chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc cách đây sáu mươi
năm, nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn. Đặc biệt, đó cũng là thời điểm đánh dấu sự ra
đời của ngành công nghiệp hạt nhân mà sự tiến bộ ghê gớm của nó đã có tầm quan trọng quyết định
đối với vận mệnh thế giới sau này. Năm 1945 ấy, cũng là năm Mĩ đã ném xuống Nhật Bản hai quả
bom nguyên tử làm hơn 40 vạn người chết, biến hai thành phố đông dân Hi-rô-xi-ma và Na-ga-daki thành đống đổ nát, gây kinh hoàng cho toàn thế giới.
Kể từ đó, cuộc chạy đua vũ trang, cuộc chiến tranh hạt nhân chính thức bắt đầu, loài người
hằng ngày luôn bị đặt trước nguy cơ tuyệt diệt.

-

5

-

Chỉ cần một vài ví dụ và làm một phép tính đơn giản như nhà văn Cô-lôm-bi-a, Gác-xi-a Mackét, chúng ta đã có thể hình dung loài người đang ở trên bờ vực thẳm như thế nào. Theo Mac-két,
tính đến ngày 8/8/1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được bố trí khắp hành tinh. Nói một cách
nôm na, điều đó có nghĩa là tất cả mọi người trên trái đất, không trừ người già, trẻ con, mỗi người
đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ. Chỉ cần bấm một cái nút, tất cả khối thuốc nổ đó nổ tung
lên, làm tiêu biến hết thảy không phải một lần mà là mười hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái
đất, tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành tinh khác nữa, phá huỷ thế
thăng bằng của hệ mặt trời.
Sự sống được nhen nhóm và tồn tại trên trái đất này không hề dễ dàng. Cũng theo G. Mac-két,
chưa nói những gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc nhỏ bé làm bằng chứng, chúng ta đã thấy rất
rõ. Từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380 triệu năm con bướm mới bay được, 180 năm
nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con ong
làm ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của
dặm đường lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có được... Huống hồ những toà nhà chọc trời,
những cánh đồng xanh mát, những cây cầu vững chãi là mồ hôi công sức của hàng triệu người ...
Vậy mà, chỉ trong tích tắc, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó có thể biến thành tro
bụi.
Đã có nhiều thảm hoạ hạt nhân như các vụ nổ nhà máy hạt nhân ở Nga (Trécnôbưn), Ấn Độ...
làm hàng nghìn người chết, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đáng tiếc là, sau những thảm
hoạ ấy, cuộc chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục, các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân vẫn không ngừng
mọc lên trên thế giới; các loại vũ khí hạt nhân như tàu ngầm, tên lửa, máy bay tối tân hiện đại vẫn
không ngừng được bổ sung ... Nhân loại vẫn từng ngày từng giờ phải đối mặt với nguy cơ bị huỷ
diệt bởi vũ khí hạt nhân.
Thế giới cũng đã có những cố gắng để giảm bớt mối đe doạ này, chẳng hạn các hiệp ước cắt
giảm vũ khí tiến công chiến lược được kí kết giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) với Mĩ. Nhưng
chiến tranh và hiểm hoạ hạt nhân vẫn luôn là mối đe doạ to lớn và thường xuyên đối với các dân
tộc, các quốc gia và toàn thể loài người. Xung đột và chiến tranh vẫn diễn ra hàng ngày ở nhiều nơi,
nhiều khu vực trên thế giới, gần đây nhất là cuộc chiến của Mĩ, Anh ở Irắc, cuộc xung đột đẫm máu
kéo dài giữa Ixraen và Palextin, chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp nhiều nơi. Các nhà máy hạt
nhân ở Ấn Độ, Pakistan, Iran, Triều Tiên, Trung quốc... luôn là nguyên nhân của những cuộc tranh
cãi, đàm phán gay gắt, không kết quả. Vì vậy, nhận thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia
vào cuộc đấu tranh cho hoà bình là yêu cầu đặt ra cho mỗi công dân trên hành tinh.
Chúng ta đang sống trong thời đại hoàng kim của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Song, chúng
ta cũng đang phải từng giây từng phút đối mặt với chiến tranh hạt nhân có nguy cơ bùng nổ bất cứ
lúc nào. Bởi vậy, con người không thể thờ ơ trước vận mệnh của chính mình và vận mạng của toàn
thể nhân loại. Điều chúng ta có thể làm được là, mỗi người cần phải ý thức sâu sắc được nguy cơ
tiềm ẩn đó, cùng nhau đoàn kết đấu tranh ngăn chặn nó, vì một thế giới hoà bình và hạnh phúc.
ĐỀ SỐ 7
Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí của con người và quy luật của tự nhiên.
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Đề bài này chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu thực
hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề đó.
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với thuyết minh.
- Phạm vi kiến thức cần sử dụng : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình và những
thông tin xác thực về tác hại của chiến tranh mà em được biết.
II. DÀN Ý
A. Mở bài
- Chiến tranh đồng nghĩa với đau thương, chết chóc, đổ máu và huỷ diệt.
- Chạy đua vũ trang là đua nhau tăng cường vũ khí để chuẩn bị chiến tranh.
- Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí của con người và tự nhiên.
B. Thân bài
1. Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí của con người

-

6

-

a) Chi phí cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân vô cùng tốn kém, tốn kém đến mức cực kì phi lí.
b) Chi phí tốn kém đó đã làm mất đi khả năng để con người được sống tốt đẹp hơn.
- Theo Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, hằng ngày có vô số trẻ em
khắp nơi trên thế giới phải chịu bao nỗi bất hạnh vì là nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; hàng
triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống
cấp. Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật.
- Năm 1981, UNICEF đã định ra một chương trình để cứu trợ cấp bách về y tế, tiếp tế thực
phẩm và nước uống, xoá nạn mù chữ, cải thiện điều kiện vệ sinh cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ
nhất thế giới. Để thực hiện được chương trình này phải cần tới 100 tỉ đô la, nhưng tất cả đã tỏ ra là
một giấc mơ không thể thực hiện được bởi số tiền quá lớn. Trong khi đó, số tiền này chỉ gần bằng
chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vượt đại châu.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện một chương trình phòng
bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ người, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới,
vv...
Điều mong muốn lớn nhất của tất thảy con người trên trái đất này là sự sống sinh sôi, cuộc đời
của con người ngày càng tốt đẹp hơn lên. Nhưng, cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân đã đi ngược lại
mong muốn, khát vọng của con người. Chưa nói đến việc chiến tranh hạt nhân bùng nổ, chỉ sự tồn
tại của vũ khí hạt nhân không thôi cũng đã gieo vào lòng chúng ta nỗi ám ảnh khủng khiếp về "cái
cảnh tận thế" do những bệ phóng hạt nhân mang lại, khiến chúng ta luôn sống trong nỗi lo lắng, bất
an. Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân đã làm mất đi của thế giới nhiều điều
kiện để cải thiện cuộc sống, cướp đi nhiều cơ hội để cứu giúp hàng tỉ người, đặc biệt là trẻ em, thoát
khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết chóc.
2. Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí của tự nhiên
a) Lí trí của tự nhiên có thể hiểu là quy luật của tự nhiên, logíc tất yếu của tự nhiên.
b) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của con người, tiêu diệt loài người mà còn
phản lại sự tiến hoá của tự nhiên, huỷ diệt mọi sự sống trên trái đất.
- Sự sống ngày nay trên trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu
năm của tự nhiên với biết bao cuộc hoài thai nhọc nhằn, đau đớn. Theo G. Mac-két, chưa nói những
gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc nhỏ bé, từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380
triệu năm con bướm mới bay được, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo
Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con ong làm ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút
mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của dặm đường lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có
được...
- Nhưng nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra, chỉ cần một tích tắc, tất cả những thành tựu khó khăn
và nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch dấu vết; mọi thành quả của quá trình tiến hoá tự nhiên sẽ trở lại
điểm xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi vì những phát minh vĩ đại của chính con người. Như
vậy, chiến tranh hạt nhân chính là sự phản lại quy luật và sự tiến hoá của thế giới tự nhiên. Năm
1945, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-xi-ma và Na-ga-da-ki thuộc Nhật Bản, biến hai
thành phố đông dân này trở về thời kì hồng hoang là một ví dụ tiêu biểu.
C. Kết bài
- Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân là một tai hoạ khủng khiếp đối với sự sống, loài người.
- Đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, vì một thế giới hoà bình, vì cuộc sống ấm no hạnh
phúc của con người là nhiệm vụ của tất cả chúng ta.
ĐỀ SỐ 8
Văn bản "Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" của G.Mac-ket là một bài văn nghị luận sinh
động.
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Đề bài này cũng chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu
thực hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề.
- Kiểu đề : Nghị luận.

-

7

-

- Yêu cầu : Bằng lí lẽ và dẫn chứng, em phải phân tích, chứng minh, đánh giá làm sáng tỏ vấn
đề : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình có phải là một bài văn nghị luận sinh động hay
không.
II. DÀN Ý
A. Mở bài
- G. Mác-két nổi tiếng là tác giả của nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn được viết theo khuynh
hướng hiện thực huyền ảo. Ông là nhà văn châu Mĩ Latinh đã đoạt giải Nô-ben văn học năm 1982.
Qua tác phẩm của mình, Mác-két đã từng đấu tranh không mệt mỏi vì hoà bình và hạnh phúc của
con người và sự sống trên trái đất.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận sinh động. Bằng lập luận chặt
chẽ, chứng cứ phong phú, xác thực ; bằng trái tim nhiệt huyết của một nhà văn vì hoà bình, hạnh
phúc của con người, Mác-két đã phân tích làm rõ nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe doạ sự sống
con người, kêu gọi mọi người hãy đoàn kết, đấu tranh ngăn chặn, xoá bỏ nguy cơ đó.
B. Thân bài
1. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một văn bản nghị luận bởi tác giả đã đặt ra một vấn
đề và bàn bạc, nêu quan điểm của mình về vấn đề đó. Luận điểm chính mà tác giả nêu ra trong bài
viết này là : "Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp đang đe doạ loài người và sự sống
trên trái đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh để loại bỏ nguy
cơ ấy".
2. Để làm sáng tỏ vấn đề và thuyết phục người đọc, tác giả đã triển khai luận điểm đó trong một
hệ thống luận cứ sắc bén, toàn diện, mạch lạc và chặt chẽ :
a) Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu vết của sự sống trên
trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
b) Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã làm mất đi cơ hội cải thiện đời sống cho hàng tỉ
người nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực xã
hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục... với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đã cho thấy
tính chất cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
c) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà mà còn trái với quy luật tự
nhiên, phản lại sự tiến hoá.
d) Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
3. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục và gây được ấn tượng mạnh vì
Mác-két đã sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, sắc bén kết hợp với chứng cứ phong phú, xác thực,
cụ thể.
a) Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy cơ chiến tranh hạt nhân, tác giả
đã bắt đầu bài viết bằng việc nêu cụ thể thời gian (hôm nay ngày 8-8-1986) và đưa ra số liệu cụ thể
đầu đạn hạt nhân với một phép tính rất đơn giản, rất dễ hiểu : 50.000 đầu đạn hạt nhân chia bình
quân cho đầu người trên thế giới, mỗi người phải hứng chịu trung bình 4 tấn thuốc nổ. Nếu chỗ
thuốc nổ đó nổ tung lên sẽ làm tiêu biến hết thảy không phải một lần mà là mười hai lần mọi dấu
vết của sự sống trên trái đất, tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành
tinh khác nữa, phá huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời...
Cách vào đề trực tiếp, việc lựa chọn được những con số xác thực, rõ ràng của tác giả đã thu hút
ngay sự chú ý và gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Đọc qua một lần, chúng ta có ngay cái cảm
giác rùng mình về sự mong manh của sự sống, con người trên trái đất ; về khả năng huỷ diệt ghê
gớm của vũ khí hạt nhân; về tính chất hệ trọng của nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
b) Để làm rõ tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ trang, tác giả đã đưa ra hàng loạt so sánh hết
sức thuyết phục giữa chi phí cho vũ khí hạt nhân với chi phí cho các hoạt động cứu trợ, phát triển xã
hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục, đặc biệt ở các nước nghèo :
- Nếu bỏ khoản chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa
vượt đại châu sẽ có đủ số tiền hơn 100 tỉ đô la để cứu trợ cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ
nhất thế giới.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện một chương trình phòng
bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ người, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.

-

8

-

- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới,
vv...
Thế nhưng, tất cả những chương trình cứu trợ trên chỉ là giấc mơ bởi số tiền đó đã được giành
vào việc sản xuất ra những vũ khí giết người hàng loạt. Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ
khí hạt nhân đã làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống, cướp đi nhiều cơ hội
để cứu giúp hàng tỉ người, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết chóc...
Phép lập luận so sánh với những con số và hình ảnh biết nói đã thuyết phục sâu sắc người đọc,
khiến người đọc không khỏi sững sờ, ngạc nhiên trước một sự thật hiển nhiên nhưng lại cực kì phi
lí, phi lí nhưng lại đang tồn tại trên trái đất này.
c) Để làm sáng tỏ luận cứ Chạy đua vũ trang là đi ngược lại lí trí của tự nhiên, tác giả đã đưa
ra những chứng cứ từ khoa học địa chất và và cổ sinh học về nguồn gốc, sự tiến hoá của sự sống
trên trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu năm: Phải trải qua 380 triệu
năm con bướm mới bay được, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Nhưng chỉ
cần bấm nút một cái, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch dấu vết, trở
lại điểm xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi. Từ đó, tác giả đi đến kết luận đầy thuyết phục:
Chiến tranh hạt nhân không những đi ngược lại lí trí của con người mà còn phản lại quy luật và sự
tiến hoá của tự nhiên.
d) Sau khi chỉ ra một cách rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân, phần kết bài cũng là thông điệp mà tác
giả muốn gửi tới loài người : Tất cả mọi người hãy cất lên tiếng nói đòi hỏi một thế giới không có
vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Tiếng nói ấy, nếu vẫn không ngăn chặn được hiểm
hoạ hạt nhân thì chí ít nó cũng nói lên được ý nghĩ và nguyện vọng của loài người mong muốn được
sống trên trái đất này trong hoà bình, tình yêu và hạnh phúc.
Kết thúc bài viết, Mác-két nêu một đề nghị: Cần lập ra một ngân hàng lưu giữ trí nhớ để các
thời đại sau có thể biết được đã từng có cuộc sống trên trái đất này, trước khi thảm hoạ hạt nhân xảy
ra. Đề nghị của Mac-két có vẻ viễn tưởng, hài hước nhưng điều ông quan tâm là chân thật, rằng :
Nhân loại cần giữ gìn kí ức của mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực hiếu chiến đã đẩy nhân loại
đến thảm hoạ tuyệt diệt.
4. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục còn bởi cảm xúc mãnh liệt và
nhiệt huyết chứa chan của tác giả. Một nhà văn thế kỉ XVIII đã từng nguyền rủa thuốc súng như
một sự sáng tạo của quỷ sứ. Đến lượt Mác-két, ông cũng nguyền rủa "những phát minh dã man nào,
nhân danh những lợi ích ti tiện nào" làm cho cuộc sống bị xoá bỏ khỏi vũ trụ này. Ông khẳng định :
"Trong thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ của con người chẳng có gì để tự hào vì đã phát
minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút một cái là đã đưa cả quá trình vĩ đại và tốn kém của hàng
bao nhiêu triệu năm trở lại điểm xuất phát của nó"...
C. Kết bài
- Như vậy, bằng lập luận sắc bén, chứng cứ phong phú, xác thực và nhiệt huyết của một nhà
văn vì hoà bình, hạnh phúc của con người, Mác-két đã nêu ra một cách rõ ràng, đầy sức thuyết phục
về mối hiểm hoạ hạt nhân đối với nhân loại ; chỉ rõ sự tốn kém vô cùng phi lí của cuộc chạy đua vũ
trang; từ đó thức tỉnh và kêu gọi mọi người phải hành động để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận xuất sắc của G. Mac-két.
ĐỀ SỐ 9
Em hãy tóm tắt văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của
trẻ em được trích in trong Ngữ văn 9, tập I.
BÀI LÀM
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em năm 1990 đã nêu
rõ thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay, tầm quan trọng của vấn đề chăm sóc, bảo
vệ trẻ em và sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em in trong
Ngữ văn 9 là một phần trích từ điều 1 đến điều 17 của văn bản trên , chia làm 4 phần :

-

9

-

Phần 1 (điều 1 và 2) khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của trẻ em, kêu gọi
khẩn thiết cả nhân loại hãy quan tâm và hành động để bảo đảm tất cả những quyền lợi này cho trẻ
em.
Phần 2 (điều 3 - 7) nêu lên những thách thức trong việc bảo đảm các quyền lợi của trẻ em. Đó
là thực trạng cuộc sống đói nghèo, cực khổ trên nhiều mặt của trẻ em, tình trạng trẻ em bị rơi vào
những hiểm hoạ khôn lường, tình trạng trẻ em không được chăm sóc, bảo vệ...
Phần 3 (điều 8 - 9) chỉ ra những cơ hội, những điều kiện thuận lợi cơ bản giúp cho các quyền
của trẻ em được thực hiện tốt. Đó là sự liên kết, nhất trí của cộng đồng quốc tế trong vấn đề chăm
sóc và bảo vệ trẻ em; là sự hợp tác và đoàn kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đảm bảo các quyền và phúc lợi cho trẻ em.
Phần 4 (điều 10-17) nêu lên một cách cụ thể, toàn diện nhiệm vụ cấp thiết của cộng đồng quốc
tế và từng quốc gia trong việc bảo vệ các quyền của trẻ em. Đó là, tăng cường sức khoẻ và chế độ
dinh dưỡng cho trẻ em, trẻ em tàn tật hoặc có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn phải được quan tâm
đặc biệt ; trẻ em phải được học hết bậc giáo dục cơ sở; đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ nam và
trẻ nữ; khuyến khích trẻ em tham gia các hoạt động văn hoá, xã hội...
ĐỀ SỐ 10
Dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em,
em hãy viết một văn bản thuyết minh (có sử dụng yếu tố miêu tả và nghị luận) về thực trạng cuộc
sống của trẻ em trên thế giới hiện nay.
DÀN Ý
A. Mở bài
- Trẻ em là tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Trẻ em có quyền được sống, quyền
được bảo vệ và quyền được phát triển.
- Nhưng thực tế cuộc sống tuổi ấu thơ của trẻ em lại không hoàn toàn như vậy.
B. Thân bài
1. Trẻ em có quyền được sống và được đáp ứng các nhu cầu cơ bản để tồn tại như được nuôi
dưỡng, được chăm sóc sức khoẻ... Nhưng trong thực tế, theo thế giới Tuyên bố về sự sống còn của
trẻ em..., hằng ngày có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng thảm hoạ của đói nghèo, khủng hoảng kinh
tế, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp... Hơn 500 triệu trẻ em nghèo khổ
nhất thế giới không có những điều kiện thiết yếu để tồn tại như thiếu thực phẩm, nước uống, thiếu
thuốc chữa bệnh... Ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt những nước kém phát triển nhất ở châu
Phi, trẻ em đang phải chịu tác động nặng nề của nợ nước ngoài, của tình hình kinh tế không giữ
được mức độ tăng trưởng đều đặn hoặc không có khả năng tăng trưởng.
- Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng, bệnh tật, kể cả hội chứng suy giảm
miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nước sạch, thiếu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma tuý. Tỉ
lệ tử vong của trẻ em nói chung, trẻ sơ sinh nói riêng ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, theo Tuyên
bố thế giới... cao đến mức không thể chấp nhận được.
- Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về quyền
trẻ em. Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng rất nhiều trong việc xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo quyền
được sống cho trẻ em. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn và miền núi khó khăn vẫn còn rất nhiều
trẻ em thiếu ăn, suy dinh dưỡng, không được chăm sóc về mặt y tế.
2. Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử, bị bỏ rơi, bị bóc lột và
xâm hại. Nhưng trong thực tế, cũng theo Tuyên bố thế giới về quyền được bảo vệ của trẻ em, hằng
ngày có vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới bị phó mặc cho những hiểm hoạ khôn lường. Chiến
tranh vẫn nổ ra liên miên trên khắp thế giới. Cuộc chiến ở Cô-sô-vô, Nam Tư; cuộc chiến tranh của
Mĩ và Anh ở Irắc; cuộc chiến ở Ap-ga-nis-tan; các cuộc xung đột ở Trung Đông; chủ nghĩa khủng
bố hoành hành khắp nơi... đã biến trẻ em thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, thậm chí, ở
một số nước châu Phi, người ta tuyển mộ cả trẻ em vào quân đội, tay lăm lăm súng ống giáp mặt
với giết chóc...
Bên cạnh đó, hàng triệu trẻ em là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ Apácthai, nạn
khủng bố, bắt giữ con tin... mà gần đây nhất là vụ khủng bố đẫm máu ở một trường học nước Nga
(Beslan) làm hàng trăm trẻ em bị giết, hàng trăm trẻ em sống sót trong nỗi kinh hoàng khôn tả...

-

10

-

Cũng do chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp, nhiều trẻ em trở thành người tị nạn, phải từ
bỏ gia đình sống tha hương để trốn tránh nỗi hiểm nguy. Có nhiều trẻ em tàn tật đã trở thành nạn
nhân của sự lãng quên, ruồng bỏ, hoặc bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột.
Ở Việt Nam, đây đó, chúng ta vẫn có thể chứng kiến cảnh trẻ em bị đánh đập, xâm hại, bị lôi
kéo vào con đường nghiện hút, bị bắt buộc làm việc nặng quá sức, bơ vơ không ai chăm sóc do cha
mẹ li hôn...
3. Trẻ em có quyền được đáp ứng các nhu cầu cho sự phát triển một cách toàn diện như được
học tập, được vui chơi giải trí, được tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao... Nhưng trong thực tế
hiện nay, có hơn 100 triệu trẻ em không được đến trường hoặc chưa trải qua giáo dục cơ sở.
C. Kết bài
- Thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay là một thách thức lớn đối với cộng
đồng quốc tế, là mối quan tâm sâu sắc của lương tâm loài người.
- Các quyền của trẻ em cần phải được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ, có trách nhiệm.
- Mỗi học sinh chúng ta hãy bằng khả năng và hành động thực tiễn của mình, phát huy tinh thần
tương ái tương trợ, yêu thương giúp đỡ, nhường cơm xẻ áo cho những bạn nhỏ gặp hoàn cảnh khó
khăn cũng là một hình thức hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
ĐỀ SỐ 11
Suy nghĩ của em về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, về sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương các cấp đối với trẻ em hiện nay.
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Kiểu bài : Nghị luận
- Yêu cầu : Em có thể dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới... trong Ngữ văn 9 và những hiểu biết
của em về vấn đề này để làm bài. Đề bài cho phép và khuyến khích suy nghĩ của riêng em. Tuy
nhiên, em nên làm rõ được một số ý cơ bản sau.
II. DÀN Ý
A. Mở bài
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia,
dân tộc bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO).
B. Thân bài
1. Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em
a) Tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ
trẻ ; phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực... của thế hệ trẻ. Trong "Thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam
có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các cháu". Trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên
trường quốc tế.
b) Qua vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chúng ta có thể nhận ra được trình độ văn minh và phần
nào bản chất của một xã hội.
2. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, chính quyền địa phương và các tổ
chức xã hội đối với trẻ em hiện nay.
a) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang được cộng đồng quốc tế quan tâm thích đáng :
- Năm 1989, Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của
trẻ em như các nhóm quyền sống còn, nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền
tham gia. Công ước này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là
điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và
thông cảm.
- Năm 1990, Tuyên bố thế giới... đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ và
chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Tuyên bố
này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và
tương lai của trẻ em.
b) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em được chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Việt Nam là
nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. sau Hội
nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

-

11

-

Việt Nam đã quyết định Chương trình hành động vì sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển
của trẻ em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế hoạc phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước.
c) Trên cơ sở đường lối, chiến lược phát triển đó, chính quyền địa phương các cấp đã vạch kế
hoạch, hành động cụ thể nhằm đảm bảo các quyền lợi của trẻ em như các chính sách hỗ trợ kinh tế
đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trường, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trường học,
thiết bị dạy học... để nâng cao chất lượng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xã hội và nhân dân đóng
góp xây dựng trường lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì người nghèo, vì trẻ em bị
nhiễm chất độc màu da cam, khuyến khích mở các lớp học tình thương, các trung tâm bảo trợ trẻ
em mồ côi, tàn tật, lang thang không nơi nương tựa...
3. Suy nghĩ của em về sựu quan tâm của cộng đồng quốc tế, các chính quyền địa phương đối
với vấn đề quyền lợi của trẻ em :
(Gợi ý : Em có vui và hoan nghênh những nỗ lực cố gắng của cộng đồng quốc tế, chính phủ
Việt Nam... về vấn đề này hay không ? Vì sao ? Ý kiến đề xuất của em, nếu có, để chính phủ, chính
quyền địa phương nơi em sinh sống thực thi tốt hơn việc bảo đảm quyền lợi cho trẻ em ?)
C. Kết bài
- Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã được cộng đồng quốc tế nói chung, chính phủ Việt Nam,
các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội Việt Nam nói riêng ý thức đầy đủ và có kế
hoạch hành động cụ thể, thiết thực.
- Để xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc ấy, mỗi học sinh chúng ta cần phải không ngừng nỗ
lực vươn lên trong học tập và rèn luyện để có thể gánh vác trọng trách là người chủ tương lai của
nước nhà sau này.
ĐỀ SỐ 12
Em hãy tóm tắt văn bản Chuyện người con gái Nam Xương trong 15 đến 20 dòng.
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Kiểu đề : Tóm tắt văn bản tự sự.
- Yêu cầu : Tóm tắt cô đọng trong 15 - 20 dòng. Đây là một văn bản dài, em phải tìm các sự
kiện, chi tiết cơ bản nhất để qua 15 dòng này có thể dựng lại đầy đủ nội dung, diễn biến chính của
câu chuyện.
II. BÀI LÀM
Xưa có chàng Trương Sinh, vì chiến tranh loạn lạc bị bắt đi lính, bỏ lại mẹ già và người vợ trẻ
ngoan hiền tên là Vũ Nương đang bụng mang dạ chửa. Mẹ Trương Sinh vì quá nhớ thương chàng
mà ốm chết, Vũ Nương hết lòng chăm sóc rồi lo ma chay chu tất cho bà. Giặc tan, Trương Sinh trở
về. Vốn tính đa nghi, nghe lời trẻ thơ không suy xét, Trương Sinh nghi Vũ Nương không chung
thuỷ, mắng đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan bèn gieo mình xuống sông tự vẫn. Cho đến một đêm,
hai cha con ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói đó là người đêm đêm đã đến với
mẹ, Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương, do có ơn với
thần rùa Linh Phi, khi chết đuối được Linh Phi cứu mạng. Phan Lang gặp lại Vũ Nương dưới thuỷ
cung. Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh.
Trương Sinh nghe Phan Lang kể, thương nhớ vợ vô cùng, bèn lập đàn giải oan trên bờ Hoàng
Giang. Vũ Nương trở về trên một chiếc kiệu hoa giữa dòng, đa tạ chàng rồi biến mất.
ĐỀ SỐ 13
Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả.
TÌM HIỂU ĐỀ
- Kiểu bài : Kể chuyện có sử dụng yếu tố miêu tả.
- Yêu cầu : Sử dụng yếu tố miêu tả khi miêu tả khung cảnh và miêu tả nội tâm để làm rõ hơn
tâm trạng của Vũ Nương trước các sự kiện, biến cố của cuộc đời nàng. Câu chữ có thể khác nhưng
nội dung thì phải trung thành tuyệt đối với nguyên bản.
BÀI LÀM
Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết
na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng

-

12

-

hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất
đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên
gia đình luôn được êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân.
Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát
nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương
chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an
trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng
chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn ; hay
mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng,
thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ
chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì
bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng
tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi
vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về
tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la
mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng.
Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích : "Thiếp vốn
con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm
đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác.
Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót
chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi
oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhưng bao nhiêu lời nói chân thành, tha thiết cũng không làm chàng
tin. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì.
Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt
vọng. Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc.
Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha
thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội
sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng : "Con duyên phận hẩm hiu, bị
chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị
Nương hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ
và chịu để mọi người phỉ nhổ". Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và
thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của
Linh Phi.
Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - người cùng làng. Nghe Phan Lang kể gia cảnh chồng
con tôi, nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thương, ai oán.
Được biết chàng Trương đã hiểu dúng ngọn ngành sự việc và vẫn thương nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối
nhưng lại cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn chưa được minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian,
tôi bèn gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa
cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trương Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa
về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa
khôn xiết. Nhưng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn được. Tôi cũng đã thề
với đức Linh Phi nên không thể trở về nhân gian được nữa. Tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi
quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao lưu luyến cõi trần.
ĐỀ SỐ 14
Em hãy đóng vai Trương Sinh kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả.
BÀI LÀM

-

13

-

Tôi là Trương Sinh ở Nam Xương, cùng quê với Vũ Nương, sau này là vợ tôi. Câu chuyện
thương tâm của gia đình tôi đã xảy ra cách đây mấy năm, nhưng mỗi lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy
dường như mới chỉ xảy ra hôm qua.
Vũ Nương là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt nàng thanh tú, đôi mắt đen dịu
hiền, mái tóc dày óng mượt. Nàng đẹp một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng
yêu mến nàng nên đã xin mẹ cưới nàng về làm vợ. Nàng là một người vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói
năng nhỏ nhẹ, một lòng thương chồng, phụng dưỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi nhưng gia
đình tôi luôn được êm ấm.
Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, tôi phải ghi tên tòng quân.
Buổi tiễn đưa, nàng buồn rười rượi, lòng trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nàng thương tôi phải đi vào
nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận
kề cái chết. Nàng không mong tôi lập công được đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình an trở về.
Tay nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rưng rưng khiến tôi cầm lòng không được. Giờ phút
chia tay đã đến. Tôi dứt áo ra đi, nàng thẫn thờ nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại,
bóng dáng nhỏ bé của người vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh thẳm. Lòng tôi nhớ thương, chua
xót không cùng.
Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một bé trai. Cháu
được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay
tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại,
Vũ Nương rất mực thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn
nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách
nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá.
Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng
cha buồn khổ lắm rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào
cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nương là một
người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm
giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt
được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa
khóc vừa thanh minh : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na
thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa
binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô
son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với
chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...". Nhưng bao nhiêu lời nói
chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra
sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt
cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy
không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng :
nàng đã nương dựa vào tôi là vì mong có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nhưng bây giờ, trâm
gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ, nàng không còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm
nữa. Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông
tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không
phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi
lang thang đi tìm vớt xác nàng nhưng không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời thỉnh cầu của nàng đã linh
nghiệm. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng
nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.
Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bã đằng đẵng. Một đêm, phòng không
vắng vẻ, tôi ngồi dưới ngọn đèn khuya, bóng in trên vách. Bé Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc
bóng và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!". Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra. Hỡi ơi, tôi đã hại chết Vũ
Nương rồi! Tôi đau đớn, ân hận, xót xa, day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng
nàng đã chết trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhưng việc đã lỡ rồi, tôi chẳng biết làm gì hơn là đau
khổ, buồn thương, day dứt.

-

14

-

Một hôm, Phan Lang - người cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là đã gặp Vũ Nương dưới thuỷ
cung. Ban đầu tôi không tin, nhưng khi chàng đưa chiếc hoa vàng cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính
là vật vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang nói, Vũ Nương vẫn cảm thấy tủi cực vì chưa được minh
oan, vẫn thương nhớ chồng con, đau xót ứa nước mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi,
cảnh nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt... Được biết nàng vẫn thương
nhớ chồng con, tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng được gặp lại nàng. Tôi làm theo lời nhắn của
nàng, lập một đàn giải oan ở bến sông, những mong nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở về,
để tôi có thể bù đắp lại những đau khổ, thiệt thòi mà tôi đã gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nương
đã trở về. Giữa dòng Hoàng Giang mênh mông sóng nước bỗng hiện lên một chiếc kiệu hoa vàng
lộng lẫy, rực rỡ. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phượng mày ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử
chỉ khoan thai như một nàng tiên. Theo sau nàng, hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy
sông, lung linh trong ánh nến thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông như một lâu đài nguy nga tráng
lệ mà nàng là người chủ lâu đài đó. Tôi vội gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng tôi nhưng cứ
đứng giữa dòng, đôi mắt buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng vào, cảm tạ tình tôi, nhưng đã hứa với
Linh Phi nên không trở về trần gian được nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhưng còn biết làm sao được.
Tuy vẫn còn thương nhớ nhau nhưng cốc nước đầy một khi đã đổ xuống đất thì dù có cố gắng thế
nào cũng không thể vớt lại cho đầy được. Giữa chúng tôi đã có những khoảng cách không thể nào
bù đắp.
Còn chưa hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sương đã phủ, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần
rồi biến mất.
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể
ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như
tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi
kịch đau đớn.
ĐỀ SỐ 15
Em hãy liệt kê các yếu tố miêu tả có trong Chuyện người con gái Nam Xương và chọn phân
tích giá trị biểu đạt của một trong số những yếu tố miêu tả đó.
DÀN Ý
1. Những yếu tố miêu tả trong Chuyện người con gái Nam Xương :
- Vũ Nương "tính đã thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp".
- "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú !"
- "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,
thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được."
- "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết
bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng
Phu kia nữa."
- "Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya..."
- "Một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng..."
- "Linh Phi bấy giờ mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười bảo Phan Lang
rằng..."
- "Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ..."
- "Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai
rợp mắt..."
- "Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến 50 chiếc xe cờ
tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện."
- Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất...
2. Chọn phân tích giá trị biểu đạt của một yếu tố miêu tả trong truyện.
(Gợi ý : Em có thể chọn một yếu tố miêu tả bất kì mà em cho là có giá trị gợi hình, gợi cảm
cao).
Ví dụ, em có thể chọn phân tích yếu tố miêu tả trong đoạn sau :

-

15

-

"Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết
bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng
Phu kia nữa".
- Cả đoạn này ý nói tình vợ chồng lâu nay gắn bó giữa Trương Sinh và Vũ Nương giờ đã tan
vỡ, hạnh phúc đã tiêu tan. Nhưng Vũ Nương không nói trực tiếp ý đó mà mượn các hình ảnh mang
tính biểu tượng để thể hiện sự việc và tâm trạng của mình. Trâm gãy bình tan thể hiện sự tan vỡ;
mây tạnh mưa tan gợi tả tình cảm vợ chồng nguội lạnh; sen rũ trong ao liễu tàn trước gió gợi tả sự
tàn lụi của tình yêu, hạnh phúc; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn gợi tả
những cố gắng níu giữ hạnh phúc trong vô vọng... Tất cả những hình ảnh đó đã diễn tả một cách ấn
tượng và xúc động tâm trạng của Vũ Nương. Đó là nỗi đau đớn, luyến tiếc cuộc sống gia đình đầm
ấm hạnh phúc, là nỗi thất vọng đến tuyệt vọng trước những oan trái của cuộc đời. Tuy là thủ pháp
ước lệ của văn học trung đại, nhưng do tài lựa chọn khéo léo, hợp tình hợp cảnh nên các hình ảnh
miêu tả trên vẫn có tác dụng gợi hình, gợi cảm cao. Nếu không sử dụng các yếu tố miêu tả như vậy,
tâm trạng của Vũ Nương không được khắc hoạ sâu sắc, câu chuyện sẽ vì thế mà kém hẳn phần hấp
dẫn.
ĐỀ SỐ 16
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân cái chết của Vũ Nương là do Trương Sinh cả ghen. Ý kiến
khác lại khẳng định, đó là do chiến tranh phong kiến... Suy nghĩ của em về nguyên nhân cái chết
của Vũ Nương?
I. TÌM HIỂU ĐỀ
- Kiểu bài : Nghị luận văn học.
- Yêu cầu : Em phải nắm vững nội dung, giá trị của tác phẩm, vận dụng những hiểu biết đó để
lí giải nguyên nhân cái chết của Vũ Nương một cách thoả đáng. Trong quá trình bộc lộ suy nghĩ,
cách lí giải của mình phải kết hợp bình luận, đối chiếu với hai cách lí giải đã nêu ở đầu bài.
II. DÀN Ý
A. Mở bài
- Vũ Nương, nhân vật chính trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là một người phụ nữ
nhan sắc, đức hạnh nhưng cuộc đời lại chịu nhiều nỗi oan khiên, ngang trái.
- Xung quanh nguyên nhân cái chết của Vũ Nương có khá nhiều ý kiến không thống nhất. Bài
viết muốn nêu lên suy nghĩ của riêng em về nguyên nhân cái chết oan khuất của người phụ nữ này.
B. Thân bài
1. Tóm lược những sự kiện chính của truyện ; phân tích, khái quát những nét chính về nhân vật
Vũ Nương:
a) Ngoại hình : dung nhan xinh đẹp.
b) Tính cách, phẩm chất :
- Nết na, thuỳ mị : nói năng nhỏ nhẹ, giữ gìn khuôn phép, lễ giáo, được mọi người yêu mến.
- Đảm đang tháo vát, hiếu thảo, nhân hậu: một mình nuôi con; thương yêu, phụng dưỡng mẹ
chồng, ma chay chu tất, trọn đạo hiếu.
- Thuỷ chung son sắt : thương chồng thương con, giữ trọn phẩm tiết, một lòng chung thuỷ chờ
chồng.
- Trong sáng, ngay thẳng : bị oan khuất, tự vẫn để giải oan...
c) Một người phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh như vậy lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc nhưng lại
có một kết cục thảm thiết. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cái chết của Vũ Nương ?
2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương :
a) Xung quanh cái chết của Vũ Nương có rất nhiều cách lí giải khác nhau. Hai ý kiến, một
khẳng định do Trương Sinh cả ghen, một cho rằng do chiến tranh phong kiến đều có cơ sở. Tuy
nhiên, mỗi ý kiến mới chỉ đúng ở một khía cạnh.
b) Trương Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nương : nếu Trương
Sinh biết kìm chế nóng giận, sáng suốt suy xét, tin ở vợ chứ không tin vào sự ngây thơ của con trẻ...
kết cục sẽ khác.

-

16

-