Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Viết bài tập làm văn số 1

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 25 tháng 10 2019 lúc 17:05:18


Mục lục
* * * * *

Vào vai Sơn Tinh kể lại truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh

Bài văn mẫu

   Ta là Sơn Tinh, vị thần trị vì vùng núi Tản Viên hùng vĩ. Hôm nay nhân ngày bà con thu hoạch vụ lúa hè thu, ta cùng người vợ thân yêu là nàng Mị Nương đi thăm thú và chúc mừng bà con. Nhìn khung cảnh yên ấm ta lại chợt nhớ về ngày ta cùng bà con chống lại Thủy Tinh để rước nàng Mị Nương về làm vợ. Những năm tháng đó ta luôn luôn khắc ghi trong lòng.

   Ta còn nhớ, hôm ấy là một ngày đẹp trời, vạn vật trong trời đất tốt tươi, nắng vàng trải khắp mọi nơi, cùng ngày hôm đó ta nghe được tin vua Hùng kén rể cho người con gái yêu là Mị Nương. Ta vốn mến yêu dung nhan và đức hạnh của nàng từ lâu nhưng chưa có dịp tỏ bày tấm lòng của mình. Nay nhân cơ hội vua Hùng kén rể hiền ta bèn sửa soạn chỉnh tề đến gặp ngài và công chúa. Ta mặc một bộ quần áo vàng, đan xen những họa tiết đẹp mắt, cưỡi một con tuấn mã trắng khỏe mạnh, cùng với tài năng vượt trội ta tin rằng chắc chắn vua Hùng và công chúa sẽ vừa ý. Khi ta đến kinh thành không khí vô cùng nhộn nhịp, những chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ từ khắp các nơi đổ về để trổ tài, ai cũng mong rằng mình có thể trở thành phò mã.

   Sau bao ngày chờ đợi cuối cùng ta cũng được đến trước mặt vua Hùng để thể hiện tài năng của bản thân. Ta vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Chứng kiến tài năng của ta cả vua Hùng và các Lạc Hầu ai nấy đều lấy làm vừa ý lắm. Nhưng ngay khi ta vừa kết thúc phần thể hiện tài năng, thì tiến lại một chàng trai vô cùng tuấn tú, cũng chạc tuổi ta, thân cưỡi rồng và mặc bộ quần áo màu bạc rất đẹp. Chàng ta tự giới thiệu mình là Thủy Tinh, vị thần biển cả. Thủy Tinh tài năng cũng chẳng hề kém ta, chàng hô mưa gọi gió làm thành giông bão, rung chuyển cả đất trời. Nhưng vua Hùng cũng như các vị quan ai nấy mặt đều tái mét đi vì lo sợ.

   Sau khi ta và Thủy Tinh thể hiện tài năng, vua Hùng không biết chọn ai nên đã cùng các vị Lạc Hầu bàn bạc và quyết định chúng ta phải vượt qua một thử thách nữa. Vua Hùng nói rằng:

   - Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới con gái ta. Sinh lễ bao gồm: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”

   Nghe phần sính lễ ta biết chắc rằng người lấy được Mị Nương làm vợ sẽ là ta, bởi những sản vật đó vốn thuộc địa phận ta cai quản, ta chẳng khó khăn gì để có thể lấy được chúng. Ta hăm hở lên đường tìm đồ sính lễ, chẳng mấy chốc đồ mà nhà vua yêu cầu đã bày biện đủ trước mắt. Tờ mờ sáng hôm sau ta mang sính lễ đến và rước nàng Mị Nương xinh đẹp, hiền thục về.

   Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, hắn ta vô cùng giận dữ, đem quân đuổi theo đánh lại ta. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão, nước dâng lên mỗi ngày một lớn, ruộng vườn nhà cửa ngập trong biển nước. Ta không hề lo sợ, nao núng, dùng tài năng của mình bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ khủng khiếp của Thủy Tinh. Nước Thủy Tinh dâng lên bao nhiêu ta lại dâng đồi núi cao lên bấy nhiêu. Cứ thế ta và Thủy Tinh đánh nhau đến hàng tháng trời, sau Thủy Tinh kiệt sức đành phải rút quân trở về.

   Nhưng từ ấy về sau, oán nặng thù sâu năm nào cũng vậy cứ đến ngày ta lấy được Mị Nương về là Thủy Tinh lại đem quân đánh trả. Nhưng để bảo về người vợ hiền thục và những người con dân yêu quý của mình, ta cùng tất cả mọi người đoàn kết một lòng đánh lui Thủy Tinh.

Xưng tôi kể lại truyện Thánh Gióng

Bài văn mẫu

   Tôi là Thánh Gióng, vốn là một vị thần trên trời, được Ngọc Hoàng cử xuống để giúp đỡ những người dân đất Việt dẹp giặc Ân xâm lược bờ cõi. Dù thời gian ở trần gian ngắn ngủi nhưng tôi sẽ không bao giờ quên tình cảm ấm áp mà mọi người đã dành cho tôi.

   Ngay từ khi mới chào đời tôi đã là một đứa trẻ đặc biệt. Tôi được sinh ra khi mẹ của tôi đi ra đồng thấy một vết chân to, bà liền ướm thử vào vết chân ấy, nào ngờ về nhà bà mang thai, và đứa bé trong bụng ấy chính là tôi. Mẹ mang thai tôi trong mười hai tháng, khi sinh ra tôi là một đứa bé hết sức khôi ngô, tuấn tú nhưng bố mẹ nhọc công nuôi tôi mà tôi lại chẳng lớn thêm được chút nào, đến ba tuổi vẫn chẳng biết nói, biết cười, biết đi, biết đứng, cứ đặt tôi ở đâu là tôi nằm im ở đó. Bố mẹ lấy làm buồn vì điều ấy lắm, nhưng chưa bao giờ tôi thấy bố mẹ nói những điều nặng nề, chê bai tôi mà vẫn hết mực yêu thương, chăm lo cho tôi.

   Năm đó giặc Ân sang xâm lược nước ta, chiến tranh xảy ra liên miên, nhân dân vô cùng cực khổ. Ai cũng mong muốn có được người hiền tài để đánh đuổi lũ xâm lược. Trước thế giặc ngày một mạnh, nhà vua vô cùng ưu phiền, lo lắng, ngài cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi để cứu nước.

   Hôm ấy, vẫn như mọi ngày, bố mẹ đi làm đồng trở về, còn tôi được đặt nằm trong nhà, bỗng tôi nghe thấy tiếng sứ giả rao, tôi mừng rỡ vô cùng, bèn gọi mẹ bảo mẹ mời sứ giả nhà. Nghe tiếng tôi gọi, mẹ hết sức ngạc nhiên, bà chết lặng đi, không thể tin rằng đứa con yêu quý của mình biết nói. Chân tay mẹ luống cuống, mẹ lật đật chạy ra đầu cổng mời sứ giả vào nhà.

   Sứ giả vào, ông ta muốn gặp ngay người đã gọi mình. Mẹ tôi chỉ về phía góc giường nơi tôi đang nằm ở đó, khuôn mặt ông ta vô cùng sửng sốt, ngỡ ngàng và ông buông một tiếng thở dài, rồi nói: “Ta tìm người hiền tài để cứu nước, chứ đâu tìm một đứa nhóc mới lên ba”. Có lẽ vị sứ giả đang rất bực bội vì nghĩ tôi đang trêu đùa ông, để xóa tan sự nghi ngờ, bực tức của ông, tôi đã đề nghị sứ giả về tâu với vua sắm cho tôi một con ngựa sắt, áo giáp sắt và một cái roi bằng sắt ba ngày sau tôi sẽ lên đường đánh giặc. Trước những gì tôi yêu cầu vị sứ giả vẫn vô cùng hồ nghi, lo lắng, nhưng vì việc nước gấp rút nên ông ta vẫn quay trở về tâu với vua, để nhà vua chuẩn bị.

   Sau khi sứ giả ra đi, tôi lớn nhanh như thổi, mỗi ngày cao lên vài thước, ăn cơm không biết no, quần áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Thấy vậy cả dân làng xúm lại đem gạo sang nuôi tôi cùng bố mẹ. Trước tấm lòng yêu thương, đùm bọc của nhân dân trong làng, lòng tôi càng quyết tâm hơn nữa đánh đuổi giặc Ân xâm lược đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọi người.

   Sau ba ngày, sứ giả quay trở lại nhà tôi và mang theo đủ những khí giới mà tôi đã yêu cầu. Tôi vươn vai trở thành tráng sĩ mình cao hơn trượng, nhanh chóng mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt và nhảy lên yên ngựa để chặn ngay thế giặc hung hãn đang ùa vào các bản làng thôn xóm. Ngựa hí vang một tiếng rồi phi như bay đến những nơi đang có giặc đốt phá làng mạc nhà cửa. Không chần chừ, tôi lao vào đánh hết lớp này đến lớp khác, dưới sức mạnh của tôi giặc chết như ngả rạ. Nhưng một điều không may, roi sắt của tôi bị gãy, trong lúc chưa biết lấy gì làm vũ khí tôi bỗng thấy những hàng tre bên đường, tôi bèn thúc ngựa chạy nhanh lại, nhổ từng cụm tre tiếp tục tiêu diệt quân thù. Chẳng mấy chốc giặc Ân đã bị đánh bại, kẻ còn sống dẫm đạp lên nhau chạy trốn mong tìm được đường thoát thân. Sau khi tiêu diệt kẻ thù, tôi bỏ lại áo giáp sắt, thúc ngựa chạy về chân núi Sóc và bay trở về trời.

   Tôi trở về trời sống cuộc đời an nhàn, nhưng vẫn không quên những tháng ngày được sống trong vòng tay ấm áp của cha mẹ, trong sự đoàn kết, đùm bọc của những người hàng xóm. Một thời gian sau tôi có nghe tin, với những công lao của mình, tôi đã được mọi người phong là Phù Đổng Thiên Vương và cứ đến tháng tư hàng năm mọi người mở hội để tưởng nhớ công ơn của tôi.

Kể tóm tắt truyện Con Rồng cháu Tiên (Bài văn mẫu 1)

Bài văn mẫu

   Ngày xửa ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt có một vị thần thuộc nòi Rồng, tên là Lạc Long Quân. Trong một lần lên cạn giúp dân diệt trừ yêu quái, Lạc Long Quân đã gặp và kết duyên cùng nàng Âu Cơ vốn thuộc dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao phương Bắc.

   Sau đó Âu Cơ có mang và đẻ ra cái bọc một trăm trứng. Sau đó, bọc trứng nở ra một trăm người con. Vì Lạc Long Quân không quen sống trên cạn nên hai người đã chia nhau người lên rừng, kẻ xuống biển, mỗi người mang năm mươi người con.

   Người con trưởng theo Âu Cơ, được lên lên làm vua, xưng là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Khi vua cha chết thì truyền ngôi cho con trưởng, từ đó về sau, cứ cha truyền con nối đến mười tám đời, đều lấy hiệu là Hùng Vương.

Kể tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy (Bài văn mẫu 1)

Bài văn mẫu

Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua cha. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy lễ Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.

Kể diễn cảm truyện Bánh chưng, bánh giầy

Bài văn mẫu

   Ngày xửa ngày xưa, Hùng Vương thứ sáu đã già yếu nên muốn truyền ngôi nhưng cứ phân vân mãi không biết chọn ai trong số hai mươi người con trai của mình. Lúc ấy, nạn ngoại xâm tuy đã dẹp yên nhưng đời sống của dân chúng vẫn còn nghèo khó. Nhà vua hiểu rằng dân có ấm no thì ngai vàng mới vững nên có ý chọn người nối nghiệp thật xứng đáng, có đủ tài đức để chăm lo cho muôn dân. Nhân dịp Tết đến, nhà vua bèn gọi các con lại và phán rằng:

   - Tổ tiên ta từ khi dựng nước đến nay đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân xâm lấn bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên vương, t đều đánh đuổi được chúng, thiên hạ được hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không thể sống mãi ở đời. Người nối ngôi ta phải hiểu được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.

   Ý vua cha như thế nào thì khó mà đoán được, nhưng ai cũng muốn ngôi báu thuộc về mình. Các lang thi nhau cho gia nhân lên rừng, xuống biển, tìm kiếm của ngon vật lạ về dâng vua cha. Riêng Lang Liêu, con thứ mười tám, tuy là dòng dõi Hùng Vương nhưng lại phải sống cuộc đời của một nông phu nghèo khó. So với anh em, nhà chàng chẳng có gì đáng giá, quanh quẩn chỉ lúa và khoai, những thứ tầm thường. Lang Liêu buồn và lo lắm!

   Một đêm, chàng trằn trọc mãi đến sáng mới ngủ thiếp đi. Chợt chàng nằm mộng thấy một vị thần hiện ra bảo rằng:

   - Trong trời đất, không có gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được. Còn lúa gạo thì tự tay mình trồng, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương.

   Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Càng suy ngẫm, chàng càng thấy lời mách bảo của thần là đúng. Vốn thông minh, chàng chọn thứ gạo nếp trắng tinh, thơm ngát đem vo sạch rồi lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho chín. Cũng gạo nếp ấy, đậu xanh ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành một loại bánh khác có hình tròn trông rất đẹp.

   Ngày lễn Tiên Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng đến. Của ngon vật lạ chẳng thiếu thứ gì. Lang Liêu cũng đội tới một mâm bánh. Hùng Vương xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu, ngắm nghía và tỏ vẻ hài lòng. Vua cho gọi chàng tới hỏi. Lang Liêu thật thà kể lại giấc mộng gặp thần cho vua cha nghe. Nghe xong, nhà vua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi ra lệnh chọn hai thứ bánh ấy tế Trời Đất và Tiên Vương.

   Tế lễ xong, nhà vua truyền đem bánh ra ăn thử cùng các quần thần. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Nhà vua giải thích cho mọi người hiểu ý nghĩa của hai thứ bánh này:

   - Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc lẫn nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.

   Lang Liêu trở thành một vị vua anh minh, nhân đức. Dưới triều đại của chàng, muôn dân no ấm và vui sống trong cảnh thanh bình.

   Từ đấy về sau, nước ta có tục ngày Tết Nguyên Đán làm bánh chưng, bánh giầy để cúng Trời Đất, tổ tiên. Nếu thiếu hai thứ bánh này là thiếu hẳn hương vị Tết cổ truyền của dân tộc.

Kể tóm tắt truyện Thánh Gióng (Bài văn mẫu 1)

Bài văn mẫu

   Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Điều kì lạ là tuy đã lên ba tuổi, cậu bé chẳng biết đi mà cũng chẳng biết nói cười.

   Giặc Ân xuất hiện ngoài bờ cõi, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gẫy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.

   Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm mở hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.

Kể diễn cảm truyện Thánh Gióng

Bài văn mẫu

   Chuyện xưa kể rằng, vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng. Gióng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là nhân hậu, phúc đức, nhưng họ buồn vì tuổi đã cao mà chưa có được mụn con nối dõi tông đường.

   Một hôm, bà vợ ra đồng, bỗng nhìn thấy một vết chân to lạ thường. Tò mò, bà đặt chân mình vào ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng sinh hạ được một cậu con trai bụ bẫm, khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm, thầm cảm ơn Trời Phật đã ban phúc cho gia đình họ. Nhưng khổ thay ! Đứa bé đã lên ba mà vẫn không biết đi, không biết nói, không biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.

   Lúc bấy giờ, giặc Ân lăm le xâm chiếm nước ta. Thế giặc rất mạnh. Nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng rao của sứ giả, cậu bé đang nằm ngửa trên chiếc chõng tre chợt cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây!". Bà mẹ ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Sứ giả vào, cậu bé bảo: "Ông về tâu với vua cấp cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".

   Sứ giả vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ vội về tâu vua. Nhà vua ra lệnh triệu tập những thợ rèn giỏi trong cả nước, ngày đêm làm gấp những thứ chú bé dặn.

   Điều kỳ lạ nữa là sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Cha mẹ cậu làm lụng quần quật vẫn không kiếm đủ gạo để nuôi con. Thấy vậy, dân làng vui lòng xúm vào góp gạo nuôi cậu bé. Ai cũng mong cậu giết giặc, cứu nước.

   Giặc Ân đã tràn đến núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người lo lắng. Vừa lúc đó sứ giả mang giáp sắt, roi sắt và ngựa sắt tới. Cậu bé bỗng vùng dậy, vươn vai một cái biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc giáp sắt, tay cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Chàng thúc vào mông ngựa, ngựa sắt hí vang, phun lửa và phi nhanh ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng sĩ vung lên, quật tơi bời vào quân giặc. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cụm tre bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết như ngả rạ. Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Giặc tan, muôn dân được sống yên bình. Nhà vua ghi nhớ công lao của tráng sĩ, phong cho tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ.

   Từ bấy đến nay, hằng năm cứ đến tháng tư là làng mở hội Gióng. Dân chúng khắp nơi nô nức kéo đến dự hội và tưởng niệm, tri ơn người anh hùng cứu nước. Dấu ấn trận đánh ác liệt năm xưa còn để lại trong màu vàng óng của những bụi tre đằng ngà, tục truyền là bị cháy do ngựa sắt phun lửa. Những dãy hồ ao liên tiếp chính là vết ngựa chiến thuở nào và tương truyền rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu rụi cả một làng, đó là làng Cháy.

Kể tóm tắt truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh (Bài văn mẫu 1)

Bài văn mẫu

   Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng.

   Một người là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một người là Thuỷ Tinh - chúa vùng nước thẳm. Để lựa chọn được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện: "Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi đến trước thi ta sẽ gả con gái cho".

   Hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến truớc, cưới được Mị Nương. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ, ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang thất bại trở về.

Kể diễn cảm truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh

Bài văn mẫu

   Chuyện xưa kể rằng Hùng Vương thứ mười tám sinh được một cô công chúa đẹp người đẹp nết tên là Mị Nương. Nàng được vua cha hết mực yêu thương, chiều chuộng. Khi Mị Nương đã đến tuổi trưởng thành, Hùng Vương có ý kén chọn cho con gái một người chồng xứng đáng.

   Tin Hùng Vương muốn kén rể liền loan truyền khắp trong thiên hạ. Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Chàng thứ nhất người vùng núi Tản Viên, vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, sức khỏe phi thường. Đó là Sơn Tinh. Sơn Tinh có tài lạ : vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Chàng thứ hai sống ở miền biển, hình dạng cổ quái tên là Thủy Tinh. Thủy Tinh có phép gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về. Cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Điều đó làm cho nhà vua phân vân khó xử, không biết chọn ai.

   Sau khi bàn bạc và hỏi ý kiến các Lạc hầu, Lạc tướng, Hùng Vương bèn phán rằng:

   - Hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một cô con gái. Thôi thì ngày mai ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới Mị Nương.

   Sơn Tinh, Thủy Tinh tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì, vua phán:

   - Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

   Hôm sau, Sơn Tinh đem đầy đủ lễ vật đến từ lúc mặt trời chưa mọc. Hùng Vương vui lòng gả con gái cho chàng. Sơn Tinh rước Mị Nương về núi Tản Viên. Hai người thật xứng đôi vừa lứa.

   Thủy Tinh đến trễ, không cưới được Mị Nương liền đùng đùng nổi giận đuổi theo. Thủy Tinh làm mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, dâng nước sông lên cuồn cuộn ngập đồi ngập núi để đánh Sơn Tinh.

   Với bản lĩnh cao cường, Sơn Tinh không hề nao núng. Chàng dùng phép lạ và tài năng của mình nâng cao đồi núi. Nước dâng tới đâu, núi cao lên tới đó. Suốt mấy tháng ròng, cuộc chiến xảy ra ác liệt. Quân lính của Sơn Tinh từ trên cao lao cây, ném đá xuống sông, tiêu diệt quân của Thủy Tinh. Cuối cùng, Thủy Tinh thua trận đành rút chạy.

   Từ đó trở đi, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám là Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Nhưng chưa bao giờ Thủy Tinh thắng nổi Sơn Tinh. Cho đến nay, vợ chồng Sơn Tinh - Mị Nương vẫn sống vui vẻ, hạnh phúc bên nhau trên đỉnh núi Tản Viên hùng vĩ.

Kể tóm tắt truyện Sự tích Hồ Gươm

Bài văn mẫu

   Giặc Minh đô hộ nước ta, chúng làm nhiều điều bạo ngược. Lê Lợi dựng cờ tụ nghĩa tại Lam Sơn nhưng ban đầu thế yếu, lực mỏng nện thường bị thua. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quan mượn thanh gươm thần để giết giặc.

   Một người đánh cá lên là Lê Thận ba lần kéo lưới đều gặp mội thanh sắt, nhìn kĩ hoá ra một lưỡi gươm. Sau đó ít lâu, Lê Lợi bị giặc đuổi, chạy vào rừng bắt được chuôi gươm nạm ngọc trên cây đa, đem tra vào lưỡi gươm ở nhà Lê Thận thì vừa như in, mới biết đó là gươm thần.

   Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đánh tan quân xâm lược.

   Một năm sau khi thắng giặc, Lê Lợi đi thuyền chơi hồ Tả Vọng; Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm.

Kể diễn cảm truyện Sự tích Hồ Gươm

Bài văn mẫu

   Vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu bao điều cơ cực. Mọi người căm giận quân xâm lược tới xương tủy. Nghĩa binh Lam Sơn buổi đầu nổi dậy lực lượng còn yếu. Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần dẹp giặc.

   Một đêm nọ, ở Thanh Hóa có người dân chài tên là Lê Thận đi đánh cá. Sau hai lần quăng chài, Thận đều kéo được một thanh sắt. Lần thứ ba cũng vậy. Xem kĩ, Thận mới biết đó là lưỡi gươm bèn đem về nhà.

   Sau đó, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, Lê Lợi vào thăm nhà Thận, đột nhiên lưỡi gươm lóe sáng. Lê Lợi cầm xem, thấy hai chữ Thuận Thiên, nhưng không biết đó là gươm quý.

   Một lần bị giặc đuổi, lúc chạy qua khu rừng, Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra trên ngọn cây cao. Ông trèo lên thì phát hiện đó là một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Lê Lợi giắt chuôi gươm vào thắt lưng và giữ gìn cẩn thận. Ba ngày sau, Lê Lợi kể cho mọi người nghe chuyện này. Lê Thận đem lưỡi gươm của mình ra xin tra vào gươm thì vừa như in. Mừng rỡ, Lê Thận kính dâng thanh gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi.

   Từ ngày có gươm thần, khí thế nghĩa quân tăng lên rất mạnh, xông xáo tung hoành tìm giặc, đánh đâu thắng đó. Quân Minh bạt vía kinh hồn phải rút chạy. Đất nước ta sạch bóng quân xâm lược.

   Một năm sau ngày chiến thắng, vua Lê dạo chơi bằng thuyền trên hồ Tả Vọng. Bỗng một con Rùa Vàng rất lớn nhô mình lên khỏi làn nước xanh. Thuyền đi chậm lại. Tự nhiên nhà vua thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy. Rùa Vàng nổi hẳn lên mặt nước và nói: Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân! Vua Lê rút gươm thả về phía Rùa Vàng. Rùa đớp lấy và lặn nhanh xuống nước. Một vệt sáng vẫn còn le lói dưới hồ sâu.

   Từ đó, hồ Tả Vọng được gọi là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Xem thêm các bài Văn mẫu cảm nghĩ, kể chuyện, tả cảnh, tả người, miêu tả lớp 6 hay khác:

Nguồn: vietjack