Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Từ ấy (Tố Hữu)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:35:53


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ, Năm 1938,, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ "Từ ấy" vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin.

   Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và nói lên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.

   Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn. Vần thơ tràn ngập ánh sáng:

    "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

    Mặt trời chân lí chói qua tim

    Hồn tôi là một vườn hoa lá

    Rất đậm hương và rộn tiếng chim".

   "Từ ấy", là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón "Mặt trời chân lí chói qua tim". Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh "bừng nắng hạ". "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng "tôi" và con đường cách mạng "bừng nắng hạ" chói chang, ấm áp. Trái tim "tôi" có "Mặt trời chân lí chói qua..". Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hổn đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương" và "rộn tiếng chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:

    "Khi ta đã say mùi hương chân lí

    Đời đắng cay không một chút ngọt bùi

    Đời đau buồn không một tiếng cười vui

    Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng..."

           ("Như những con tàu" - 1938)

   Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp.

   Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thật vô cùng kì diệu. "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng" (A-ra-gông - Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tình yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó giữa nhà thơ, người chiến sĩ trẻ "với mọi người", "với trăm nơi", "với bao hồn khổ" với giai cấp và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiên bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: "buộc", "trang trải", "gần gũi" biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với "khối đời" - khối công nông liên minh:

    "Tôi buộc lòng tôi với mọi người

    Để tình trang trải với trăm nơi

    Để hồn tôi với bao hồn khổ

    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

   Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

   Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hoà trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ..". Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:

    "Tôi đã là con của vạn nhà

    Là em của vạn kiếp phôi pha

    Là anh của vạn đầu em nhỏ

    Không áo cơm cù bất cù bơ...".

   Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lí", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của cách mạng.

   Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình".

    "Tôi buộc lòng tôi với mọi người

    Để tình trang trải với trăm nơi

    Để hồn tôi với bao hồn khổ

    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

   Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

   Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hoà trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ..". Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:

    "Tôi đã là con của vạn nhà

    Là em của vạn kiếp phôi pha

    Là anh của vạn đầu em nhỏ

    Không áo cơm cù bất cù bơ...".

   Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lí", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của cách mạng.

   Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình".

Bình giảng bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 tại Thừa Thiên - Huế. Ông là nhà thơ lớn của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thơ của Tố Hữu gắn liền với cuộc cách mạng của ông, Mỗi tác phẩm của thi sĩ là một chặng đường lịch sử, là một chiến công của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch: Từ ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977)...

   Bài thơ Từ ấy được. Tố Hữu sáng tác vào tháng 7-1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.

   Từ ấy là lúc, là khi nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, một kỉ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng mà sau này ông nói rõ trong một bài thơ "Con lớn lên con đi tìm Cách mạng — Anh Lưu, Anh Diểu dạy con đi - Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì" (Quê mẹ).

   "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã "chói qua tim" đem lại ánh sáng cuộc đời như "bừng" lên trong nắng hạ - một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng.

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

    Mặt trời chân lí chói qua tim

   Lí tưởng cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự kiện biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mạng đem lại.

    Hồn ta là một vườn hoa lá

    Rất đậm hương và rộn tiếng chim

   "Hồn" đã trở thành "vườn hoa lá" một vườn xuân đẹp ngọt ngào hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ (mặt trời chân lí), tác giả lựa chọn sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm" bừng", "chói", "đậm", "rộn" để diễn ta thay hay niềm say mê lí tưởng "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng" (Agagông - Pháp)

   Hai khổ thơ thứ 2 và thứ 3 nói lên tình yêu thương giai cấp của người chiến sĩ cách mạng. Dưới ánh sáng của lí tưởng Cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân cùng khổ:

    Tôi buộc lòng tôi với mọi người

    Để tình trang trải với trăm nơi

    Để hồn tôi với bao hồn khổ

    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

   Các động từ - vị ngữ như : "buộc", "trang trải", "gần gũi" diễn tả tình cảm gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng, với quần chúng lao khổ. Các từ ngữ "mọi người - trăm nơi" "bao hồn khổ" chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng "khối đời", khối công - nông liên minh ngày thêm mạnh, thêm gần gũi chặt chẽ. Ba chữ "tôi" xuất hiện trong khổ thơ thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng.

   Khổ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ "con", "em", "anh" xuất hiện liên tiếp, giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha: "là con ...là em..là anh". Các số từ "vạn" (vạn nhà), "vạn" (vạn kiếp phôi pha) "vạn" (vạn đầu em nhỏ..)- cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên chiến đấu cho tự do và hạnh phúc. Tố Hữu đã có một cách nói sôi nổi, mới mẻ tình cảm cách mạng, tình yêu giai cấp.

    Tôi là con của vạn nhà

    Là em của vạn kiếp phôi pha

    Là anh của vạn đầu em nhỏ

    Không áo cơm, cù bất cù bơ...

   Từ ấy mang hồn thơ trẻ trung, sôi nổi, nồng nàn, say mê và tràn đầy yêu thương. Say mê lí tưởng, yêu thương giai cấp đã tạo nên tình cảm lớn trong bài thơ Từ ấy. Hình tượng đẹp và mới mẻ, chất chữ tình chính trị đã làm nên hương sắc bài thơ. Sáu mươi năm đã qua mà câu thơ "Mặt trời chân lí chói qua tim" vẫn còn mới mẻ. Tố Hữu là nhà thơ viết được những vần thơ hay nhất, đẹp nhất ca ngợi lí tưởng cách mạng và ca ngợi Đảng.

Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu 

 Sức hấp dẫn của tập thơ Từ ấy (1937 - 1946) trước hết là sự hấp dẫn của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng vẫy gọi thanh niên Tố Hữu lên đường đấu tranh và anh đã hướng theo lí tưởng như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời. Nhà thơ nguyện suốt đời phấn đâu cho lí tưởng.

    Tôi vẫn hằng tự nghĩ: Miễn quên thân

    Dâng tất cả đề tôn thờ chủ nghĩa.

            (Trăng trối)

   Nhớ lại buổi đầu được giác ngộ Tố Hữu bồi hồi xúc động viết bài thơ Từ ấy (1938).

   Bài thơ nói lên lí tưởng, nói đến những chuyển biến trong tâm hồn nhà thơ khi được ánh sáng lí tưởng chiếu rọi. Những vấn đề lí tưởng cách mạng được nhà thơ diễn đạt tự nhiên nhuần nhị, bằng tiếng nói của nghệ thuật, bằng hình ảnh âm thanh, bằng tình cảm chân thành nồng thắm.

   Nhan đề Từ ấy có ý nghĩa thông báo thời gian. Từ ấy gợi nhớ về thời điểm may mắn thiêng liêng, xúc động khi tâm tư đang "Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời" thì bắt gặp ánh sáng của Đảng nên tâm hồn nhà thơ bừng lên niềm vui sướng ngất ngây:

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

    Mặt trời chân lí chói qua tim

    Hồn tôi là một vườn hoa lá

    Rất đậm hương và rộn tiếng chim

   Nhà thơ dùng hàng loạt biện pháp tu từ để nói lên những cảm xúc động mãnh liệt khi đón nhận ánh sáng chân lí. Lí tưởng cách mạng là nguồn sáng dịu kí chói chang như ánh nắng mặt trời giữa những ngày hè rực rỡ đã tràn ngập tâm hồn, khơi dậy những tình cảm mới mẻ, những rung động thiết tha, tạo bước ngoặc mới trong đời. Ánh sáng soi đường đi tới tương lai rõ ràng, rộng mở. Từ bừng vừa diễn tả sức mạnh của lí tưởng xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản vừa diễn tả sự bừng tỉnh của nhận thức, giác ngộ về chân lí, lẽ sống lớn. Từ chói cũng góp phần thể hiện sức mạnh chinh phục của lí tưởng, nhanh chóng chiếm lĩnh mọi trái tim, tâm hồn. Tố Hữu đã ví tâm hồn xao động của mình đang chói chang nắng hạ khác nào như một vườn hoa lá đang đậm hương và rộn tiếng chim. Từ đậm và rộn diễn tả mật độ, mức độ dồi dào của sự sống, thể hiện niềm ngất ngây trong men say hạnh phúc. Tâm hồn thật tắm xanh vì tiếp nhận chân lí là tiếp nhận nguồn sống, nguồn năng lượng mới.

   Một lí tưởng đẹp nổi bật qua hệ thống hình ảnh đẹp.

    Lí tưởng đến với nhà thơ, nhà thơ thắp sáng mình trong lí tưởng tạo nên những chuyển biến về tư tưởng tình cảm mở đầu cho những hoạt động đầy ý nghĩa:

    Tôi buộc lòng tôi với mọi người

    Để tình trang trải với trăm nơi

    Để hồn tôi với bao hồn khổ

    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời...

   Bước chuyển biến đầu tiên của nhà thơ là hòa mình vào quần chúng lao khổ, thông cảm và chia sẻ với những nỗi khổ đau của họ. Nhà thơ đến với họ không phải từ lòng trắc ẩn mà với tình cảm chan chứa yêu thương. Tình cảm được diễn đạt bằng từ ngữ cô đọng hàm súc. Từ buộc diễn đạt một cách sinh động sự gắn bó khắng khít của nhà thơ quần chúng. Từ trang trải gợi lên tình cảm thương mến bao la. Từ khối cho ta hình dung về sức mạnh đoàn kết. Những từ này vừa có tính hình tượng vừa có giá trị biểu cảm. Lí tưởng dẫn dắt nhà thơ vể với cuộc đời, tìm thấy vị trí chỗ đứng trong đời đứng trên lập trường của nhân dân để hành động.

   Nhịp diệu câu thơ tạo âm hưởng vang vọng, góp phần biểu đạt trạng thái tâm hồn nhà thơ. Lúc này lí tưởng đã mở đôi cánh của tâm hồn. Tâm hồn anh đang lộng gió bốn phương, hướng về trăm ngả. Tâm hồn ấy đang cố gắng vượt ra khỏi cái tôi tầm thường nhỏ bé để thực hiện tâm nguyện cao đẹp nơi cuộc đời rộng lớn:

    Tôi đã là con của vạn nhà

    Là em của vạn kiếp phôi pha

    Là anh của vạn đầu em nhỏ

    Không áo cơm, cù bất cù bơ...

   Điệp từ là cái gạch nối bền chặt, một bên là cái tôi, bên kia là cuộc đời vạn kiếp thương đau. Cán cân bị lệch nên cái tôi nghiêng về chan hòa với cái ta rộng lớn. Lời thơ trang trọng như lời khẳng định tự nguyện đến với quần chúng lao khổ. Khổ thơ đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư tưởng tình cảm của nhà thơ. Gắn bó với quần chúng, nhà thơ nguyện làm một thành viên trong đại gia đình của những người ở bậc thang cuối cùng trong xã hội cũ để thức tỉnh họ cùng đấu tranh và tranh đấu vì họ. Nếu khổ thứ hai chủ yếu hướng nội với cái tôi xuất xứ, thì ở khổ thơ này, cái tôi chủ yếu hướng ngoại nhưng cái lắng sâu trong tâm hồn người chiến sĩ là tình thương vô hạn đôi với thân phận lạc loài, bé nhỏ, bơ vơ: Hai đứa bé, Đi đi em, Một tiếng rao đêm...

   Hai khổ thơ sau biểu hiện nhân sinh quan cách mạng, tinh thần nhân đạo cộng sản cao đẹp của nhà thơ

   Nếu tập thơ Từ ấy là chặng đường thơ của tâm hồn người thanh niên tư sản được giác ngộ và trở thành người chiến sĩ cách mạng thì bài thơ Từ ấy tóm tắt quá trình chuyển biến ấy.

   Quá trình chuyển biến tình cảm nhận thức diễn tả cô đọng hàm súc trong một bài thơ ngắn gọn đầy hình ảnh và giàu cảm xúc. Nhà thơ vui sướng ngất ngây khi bắt gặp ánh sáng diệu kì, ánh sáng chân lí của Đảng và nhà thơ nguyện sẽ là chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng công nông.

   Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn về quan điểm nhân sinh với những nhận thức, tình cảm mới của nhà thơ, trên cơ sở đó là quan điểm nghệ thuật của nhà thơ: Văn chương phục vụ sự nghiệp cách mạng.

   Thanh niên phải biết lựa chọn và xây dựng lí tưởng sống cao đẹp thì mới có cuộc sống giàu ý nghĩa.

Giới thiệu một vài nét về Tố Hữu và bài Từ ấy

1. Tác giả Tố Hữu

   Tố Hữu sinh năm 1920 tại Thừa Thiên Huế và mất năm 2002 tại Hà Nội Tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.

   Tố Hữu sinh ra trong gia đình nhà Nho, từ năm 6 tuổi đã học làm thơ. Đến giữa những năm 30, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Trong cuộc vận động dân chủ năm 1936-1939, Tô Hữu lãnh đạo đoàn thanh niên dân chủ ở Huế. Thơ của Tố Hữu bắt đầu xuất hiện trên báo vào các năm 1937-1938. Năm 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam; năm 1942, ông vượt ngục tiếp tục hoạt động cách mạng. Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông lãnh đạo khởi nghĩa ở Huế. Sau cách mạng, ông trở thành nhà lãnh đạo tư tưởng, văn nghệ của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng trở thành một nhà thơ lớn của dân tộc.

   Tố Hữu đã để lại cho thế hệ sau nhiều bài thơ có giá trị. Ở Tố Hữu có sự gắn bó mật thiết giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ của ông chan chứa tình yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cách mạng. Những tác phẩm đã xuất bản của ông có thể kể ra như tập thơ Từ ấy (1946), tập thơ Việt Bắc (1954), tập thơ Gió Lộng (1961), tập thơ Ra trận (1972), tiểu luận Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta (1973), tập thơ Máu và Hoa (1977), tiểu luận Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (1981), tập thơ Một tiếng đờn (1992), hồi kí Nhớ lại một thời (2000)...

   Với những đóng góp cho nền văn học nghệ thuật nước nhà, Tố Hữu đã vinh dự được phong tặng nhiều danh hiệu và giải thưởng khác nhau: Giải Nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam (1954 -1955), Giải thưởng văn học ASEAN (1996), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).

2. Bài thơ Từ ấy

   Tập thơ "Từ ấy" (1937 - 1946) là chặng đường thơ đầu tiên trong đời thơ Tố Hữu, gắn liền với quá trình vận động của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng.

   Đây là tiếng ca vui tươi, trong trẻo, hân hoan, nồng nhiệt của một tâm hồn trẻ khao khát lẽ sống đã bắt gặp ánh sáng lí tưởng, đồng thời tập thơ cũng giàu chất lãng mạn, trong trẻo, sôi nổi trẻ trung của một cái tôi trữ tình, mới mẻ cách mạng.

   Năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Đó là một bước ngoặt vĩ đại trong cuộc dời cách mạng của Tố Hữu. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc và suy tư sâu sắc, Tố Hữu viết thơ Từ ấy. Bài thơ nằm trong phần Máu lửa của tập Từ ấy (tập thơ gồm ba phần Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng)

Phân tích khổ đầu bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Tố Hữu đã diễn tả rất chân thành niềm vui sướng, say mê của mình khi bắt gặp lí tưởng của Đảng:

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

    Mặt trời chân lí chói qua tim

    Hồn tôi là một vườn hoa lá

    Rất đậm hương và rộn tiếng chim

   Tháng 7- 1933, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, cái mốc "Từ ấy" chính là đánh dấu thời điểm đó. Bằng hình ảnh ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí và cách nói ngoa dụ chói qua tim, Tố Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm. Tâm hồn ấy giờ đây là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên yêu nước, còn gì đáng quý hơn khi có một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt? Tóm lại, Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm tin yêu đời, làm cho cuộc sống của con ngươi có ý nghĩa hơn.

Phân tích bài thơ Từ ấy để thấy tâm trạng của một thanh niên say mê lý tưởng

Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là "lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng". Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sống cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Các tác phẩm chính: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa,...

   Từ ấy (1937 - 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Tập thơ gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm,…

   Tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sống (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

   Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

   Hai câu thơ mở đầu trong khổ thơ 1 được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

    Mặt trời chân lí chói qua tim

   Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niện Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tố Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí - một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những diều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ "bừng", (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), "chói" (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.

   Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời", còn gì quý giá hơn khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sống, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

   Ở khổ thơ thứ hai, trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi dược giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa "cái tôi" cá nhân và" cái ta" chung của mọi người. Với động từ "buộc", câu 1 là một cách nói quá thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi" cá nhân để sống chan hòa với mọi người ("trăm nơi" là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ "trang trải" ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

   Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, "khối đời" là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" chan hòa trong "cái ta", khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ dược nhận lên gấp bội.

   Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

   Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ "là" cùng với từ "con" "em", "anh" và số từ ước lệ "vạn" (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những "kiếp phôi pha" (những người đau khổ bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ "không áo cơm cù bất, cù bơ" (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khôn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,...).

   Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.

   Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu. Từ ấy đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của ông. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.

Nguồn: vietjack