Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:14:45


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn đầu thế kỉ XX. Thơ văn của ông tràn ngập tinh thần yêu nước trên cả hai mảng sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 trước khi ông lên đường sang Nhật Bản. Tác phẩm cho thấy bầu nhiệt huyết tìm đường cứu nước cháy bỏng của người chí sĩ cách mạng.

    Chí làm trai làm một phạm trù quan trọng trong văn học trung đại, nó được thể hiện không chỉ ở trong văn học dân gian: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên” mà còn thể hiện đậm nét trong các sáng tác trung đại: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển” (Chí làm trai – Nguyễn Cống Trứ)…. Và đến Phan Bội Châu, ông cũng tiếp nối truyền thống của văn học dân tộc, nhưng có những bước tiến mới, với quan niệm mới mẻ:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Đối với Phan Bội Châu làm trai phải “lạ” tức là phải có quan niệm, lí tưởng sống cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường, hiển hách. Ông không chấp nhận sự xoay vần của vũ trụ, để nó ảnh hưởng đến số phận, cuộc đời mình. Phan Bội Châu cho rằng làm trai không được để bản thân ở thế bị động, để số phận quyết định đời mình mà phải là một nam nhi chủ động, tự tạo nên con đường của bản thân. Điều này đã được minh chứng rõ nét trong cuộc đời của ông. Trước cảnh nước mất nhà tan, giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi, nhiễu nhương đời sống nhân dân, là một người yêu nước thương nòi nên Phan Bội Châu không thể đứng im nhìn cảnh tượng đau lòng đó, ông mang quyết tâm lớn, ra nước ngoài (Nhật Bản) để học tập và tìm con đường cứu nước đứng đắn cho dân tộc. Cuộc đời ông đã minh chứng cho cái “lạ” mà ông thể hiện trong thơ ca. Lí tưởng sống cao đẹp, vì dân vì nước của ông thật đáng trân trọng và tự hào. Hai câu thơ đầy khẩu khí, giọng điệu vô cùng tự tin, táo bạo.

    Hai câu thực thể hiện ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Câu thơ thể hiện những khao khát cao đẹp của một nhân cách lớn. “Trăm năm” là cả một đời người, với nhiều biến động của lịch sử xã hội, nhưng ông vẫn khẳng định “cần có tớ” để đem hết tài năng của bản thân cống hiến, hoàn thành sứ mệnh của kẻ làm trai, trả món nợ công danh và lưu danh muôn thuở “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” tức mọi việc trong trời đất đều thuộc phận sự của ta. Câu thơ cho thấy sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn, nhân cách lớn. Ở họ đều có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc, học sẵn sàng gánh vác sứ mệnh mà lịch sử giao cho. Câu thơ thứ tư hướng đến thế hệ tương lai, những người tiếp nối sự nghiệp, cho thấy ý thức, khát vọng, cũng như niềm tin của ông vào những thanh niên thế hệ tiếp nối.

    Trước tình cảnh của đất nước Phan Bội Châu thể hiện thái độ hết sức quyết liệt:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Ông nhận thức sâu sắc về thực trạng đất nước lúc bấy giờ “non sông đã chết” – đất nước đã mất chủ quyền, mảnh đất ông cha đổ bao xương máu mới giữ được nay lại rơi vào tay quân giặc, nhân dân phải sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Cuộc sống đó khiến ông cảm thấy “sống thêm nhục” nó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước. Trong câu thơ dịch chưa truyền tải hết tinh thần của nguyên tác: “Giang sơn tử hĩ đồ nhuế/ Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” câu thơ đầy mạnh mẽ, tràn ngập cảm hứng phủ định về nền học vấn Nho học đã lỗi thời, không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Để từ đó ông nêu lên khát vọng hành động và tư thế lên đường:

    Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Tác giả dựng lên bối cảnh kì vĩ, to lớn đó là biển đông, là những ngọn gió lớn, những đợt sóng bạc, các sự vật to lớn như vậy mới có thể thể hiện đầy đủ cái hùng tâm tráng trí ôm trùm thiên hạ của một con người yêu nước nồng nàn. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế “bay lên” cho thấy con người có tầm vóc lớn lao, sánh ngang vũ trụ. Câu thơ là kết tinh trọn vẹn khát vọng, hành động đẹp đẽ của Phan Bội Châu: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là cách thức ông thỏa chí làm trai.

    Ngôn ngữ thơ cô đọng, giàu sức truyền cảm. Giọng điệu thơ tâm huyết, sâu lắng, đầy sôi sục, hào hùng. Những vần thơ có tác động mạnh mẽ với tâm lí người đọc, nó như một bài tuyên truyền cổ vũ, động viên con người hãy đứng lên và hạnh động vì đất nước.

    Xuất dương lưu biệt đã khắc họa một cách chân thực và lãng mạn vẻ đẹp hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đầu thế kỉ. Ông mang trong mình những tư tưởng canh tân mới mẻ, táo bạo với lòng nhiệt huyết sục sôi, cuộn trào, khát vọng lên đường cháy bỏng để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.

Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ "Xuất dương lưu biệt". Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

   "Xuất dương lưu biệt" được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ỷ nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

   Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

    "Sinh vi nam tử yếu hi kì

    Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di."

   Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thê sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:

    "Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,

    Mở miệng cười tan cuộc oán thù".

   Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:

    "Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,

    Lập thân tối hạ thị văn chương."

    (Tùy viên thi thoại - Viên Mai)

    (Bữa bữa những mong ghi sử sách,

    Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).

   Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: "Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy..." (Ngục trung thư).

   Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

    "Ư bách niên trung tu hữu ngã,

    Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"

   Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

    "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng".

            ("Hịch tướng sĩ" - Trần Quốc Tuấn)

    "Nhân vinh tự cổ thủy vô tử

    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh."

            (Vân Thiên Tường)

   Lấy cái hữu hạn - bách niên - của một đời người đối với cái vô hạn - thiên tài - của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

    "Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

    Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!"

            (Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)

   Khi non sông đã chất, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà:

    "Non sông đã chết, sống thêm nhục,

    Hiền thánh còn đâu học của hoài."

   Phan Bội Châu đã dặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

    "Ai hữu chi từ nay xin gắng gỏi

    Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần

    Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn

    Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa

    Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…"

   Sống như thế là sống đẹp, sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: "Trong khoảng trăm năm cần có tớ."

   Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc lãng mạn:

    "Nguyệt trục trường phong Đông hải khứ,

    Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi."

   Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong - Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng — ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu.Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

   "Xuất dương lưu biệt" là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Cảm nhận về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu 

 Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng của ông vẫn lưu mãi muôn đời. Ông dùng thơ văn của mình như một thứ vũ khí đắc lực để cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Xuất dương khi lưu biệt là một trong những bài thơ như vậy.

    Thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã có nhiều phong trào nổ ra, trong đó nổi bật nhất là phong trào Cần Vương nhưng cuối cùng vẫn bị dập tắt, nó là sự báo hiệu cho việc cứu nước theo con đường phong kiến đã không còn thích hợp. Trước thực trạng chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phong trào cách mạng mới của Phan Bội Châu đã hé mở một hi vọng mới, ông cùng những người cùng chí hướng đã lập ra Duy tân hội. Đầu năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật, mở đầu cho phong trào Đông Du. Tác phẩm Xuất dương lưu biệt được viết trước khi ông lên đường. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước sâu lặng của tác giả.

    Hoài bão cuộc đời, chí khí làm trai của Phan Bội Châu được bộc lộ trực tiếp ngay trong câu thơ đầu tiên của tác phẩm:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Câu thơ bắt đầu bắt motip rất phổ biến trong văn học trung đại đó là “làm trai” tức để nói về nghĩa vụ, trách nhiệm của một nam nhi đối với cuộc đời, đối với đất nước. Đây là quan niệm nhập thế tích cực của Nho giáo. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến rất nhiều bài thơ nói chí phổ biến trong văn học trung đại như: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão) hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi song” (Nguyễn Công Trứ). Đến đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu tiếp tục nhắc lại quan niệm về chí làm trai, nhưng trong cách thể hiện của ông mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Làm trai là “phải lạ” tức là phải biết sống một cách phi thường, hiển hách, dám xoay vần, chuyển đất, không thể là một kẻ sống cuộc đời tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo thời thế, để con tạo tự xoay vần cuộc đời mình. Bởi vậy mà:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Trong khoảng trăm năm là cả một đời người với biết bao biến cố có thể xảy ra, Phan Bội Châu tự tin khẳng định: “cần có tớ” cái tôi cái nhân xuất hiện thật ngạo nghễ, thật chủ động. Cần có ông không phải để được vui chơi, hưởng lạc mà là để cống hiến tận lực, tận tâm cho đời, để tiếng thơm còn lưu danh muôn thuở. Trong thời cuộc lúc bấy giờ đầy rối ren, thử hỏi mấy ai có thể chủ động đứng ra nhận lấy trách nhiệm vừa cao cả, vừa nặng nề ấy cho bản thân. Câu thơ của ông càng khiến ta cảm phục hơn về nhân cách cao đẹp, lớn lao ấy.

    Với bốn câu thơ đầu người đọc có thể thấy hình tượng người chí sĩ hiện lên là người có khát vọng làm những việc lớn lao, trọng đại. Đồng thời ông cũng đầy ý thức về cái tôi của bản thân nhưng không phải là cái tôi hưởng thụ mà là cái tôi công dân đầy trách nhiệm. Có ý thức cống hiến cho đời. Giữa thời buổi tối tăm đó ý thức làm trai, khát vọng xoay chuyển vũ trụ và hoài bão lớn lao của Phan Bội Chây có ý nghĩa vô cùng to lớn.

    Bốn câu thơ cuối thể hiện chí làm trai trong hoàn cảnh thực tế:

    Non sông đã chết sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Muốn vượt biển đông theo cánh gió

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Câu thơ là nỗi đau đớn, xót xa quặn thắt của nhân vật trữ tình trước thực tế nước nhà đã bị mất chủ quyền, nhân dân phải sống trong vòng nô lệ. Phan Bội Châu cũng ý thức rõ về sự hết thời của Nho học, sách vở thánh hiền không còn có ý nghĩa gì cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ông vốn xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, vậy nhưng ông không hề bao biện mà thấy rõ sự bất lực, vô ích của lối học cũ, mang trong mình quyết tâm tìm ra con đường mới để giải phóng đất nước. Đây là một ý tưởng hết sức mạnh mẽ, táo bạo. Sự táo bạo đó bắt nguồn từ nhiệt huyết nồng cháy, lòng yêu nước nồng nàn, muốn nhanh chóng thực hiện sự nghiệp cứu nước. Đồng thời cũng do ông chịu ảnh hưởng từ những cuốn “tân thư” được truyền bá bí mật vào nước ta lúc bấy giờ. Chính những yếu tố đó đã thôi thúc ông tìm một hướng đi mới, con đường mới để cứu nước, cứu dân.

    Với giọng điệu tràn đậy nhiệt huyết và cảm xúc, bài thơ đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ khí phách ngang tàng, táo bạo quyết liệt của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Đồng thời tác phẩm này cũng cho người đọc thấy nét tính cách nổi bật trong con người ông đó là cá tính mạnh mẽ, ưa hành động, lòng yêu nước nồng nàn, sâu đậm.

Nguồn: vietjack