Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Chiều tối (Hồ Chí Minh)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 9:32:07


Mục lục
* * * * *

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

I. Mở bài

1. Xuất xứ

   Nguyên tác bằng chữ Hán. Nhan đề phiên âm là Mộ, dịch sang Việt ngữ là Chiều tối, được trích trong tập Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh.

2. Chủ đề

   Niềm lạc quan tin yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên của một nhà thơ – chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày

II. Thân bài

- Bức tranh thiên nhiên:

    Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

    Cô vân mạn mạn độ thiên không

    (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

    Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;)

   Trước nhất, bức tranh thơ này được thể hiện theo lối kí họa của nghệ thuật tạo hình phương Đông.

   Hình ảnh cánh chim là trung tâm của câu thơ thứ nhất. Nếu ta chỉ chú ý vào chi tiết cánh chim mỏi thì sẽ gây ấn tượng buồn bã. Thế nhưng điều bất ngờ phá tan cái ấn tượng buồn kia là chi tiết "tìm chốn ngủ". Cánh chim về rừng tìm chấn ngủ đã gợi cho người đọc một cảm giác bình yên,— cảm giác về tổ ấm.

   Bởi vậy ở đây không phải là cánh chim lạc loài mà là cánh chim bay về tổ ấm.

   Câu thơ thứ hai, từ cô vân là đám mây đơn độc. Đám mây cô độc thường gây cảm tưởng buồn bã. Vẫn theo logic của câu thứ nhất. Ở đây, đám mây không trôi trong tăm tối, mù mịt mà là trôi nhẹ đã tạo cho ta cái ấn tượng ung dung, thanh thản, nên nó là đám mây có chiều kích phóng khoáng.

   Không gian và thời gian vào buổi hoàng hôn trong Nhật kí trong tù thường được diễn tả qua một số bài thơ: Chiều tối, Cảnh chiều hôm.Nhưng trong những bức tranh có phần ảm đạm đó, hình ảnh con người toát lên niềm tin yêu cuộc đời vẫn được thể hiện, đặc biệt là trong bài Chiều tối.

   Vài nét chấm phá đơn sơ đã làm toát lên cái hồn của cảnh vật và gợi lên tư thế ung dung, phóng khoáng của tâm hồn tác giả.

- Tâm trạng của tác giả:

    Cô em xóm núi xay ngô tối,

   Bóng đêm đã làm sáng lên hình ảnh thiếu nữ đang xay ngô bên lò than. Sinh hoạt của con người dưới ánh lửa hồng ấm áp như xua tan bao cảm giác lạnh buồn, quạnh hiu của núi rừng vào đêm.

   Thơ Đường tả cảnh thiên nhiên đẹp — thơ Hồ Chí Minh cũng có nhưng không vắng bóng con người, khiến câu thơ hiện thực hơn. Giữa thôn vắng chỉ thấy bóng "cô em" đang im lặng, cần mẫn xay ngô. Cái động của bức tranh cũng nhịp nhàng, lặng lẽ nhưng chứa đựng sức sống.

    Xay hết, lò than đã rực hồng.

   Tháng mười ở sơn thôn tiết trời lạnh vào buổi tôi. Thiếu nữ trước khi xay ngô đã đốt bếp lửa, từ lúc trời chưa tối cho đến khi "chim mỏi về rừng..."

   Kể từ khi bắt tay vào xay ngô, công việc đã cuốn hút thời gian. Đến khi hết công việc thì bóng đêm đã tràn ngập từ bao giờ!

   Nhà thơ, người quan sát, ắt hẳn đã chứng kiến nhịp bước của thời gian, sác màu từ nhạt đến đậm và cái nền (phông) của bức tranh cũng theo nhịp bước ấy. Sự tương phản màu sắc tỉ lệ thuận với thời gian và cả bóng đêm lẫn bếp lửa. Có như thế ta thấy được cái nhìn tinh tế, cảm xúc của nhà thơ thật nhạy bén: nắm bắt kịp thời và ghi lại thành một bức tranh ở giây phút kì diệu kia.

   "Lò than rực hồng trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh chiều tối, tỏa cái ấm ra theo âm thanh nống ấm của chữ hồng" (theo Lê Trí Viễn)

III. Kết bài

   Trong hoàn cảnh bị đày ải trên đường xa cô độc, mệt mỏi giữa núi rừng nơi đất khách quê người, giữa cảnh hoàng hôn buồn, tác giả nhìn cảnh vật lại thấy ấm áp, tươi vui, nhất là qua ánh lửa hồng chiếu rọi bóng dáng con người đang lao động.

   Điều đó chứng tỏ mọi vui buồn của con người, hầu như không phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng. Điều đó cũng phản ánh một tầm hồn dào dạt tình yêu thiên nhiên, một tâm hồn luôn rộng mở và luôn hướng về cuộc sống con người và hồng thơ ấy đầy ắp trữ tình.

Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Chiều tối của Hồ Chí Minh 

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già của dân tộc, Người không con mà có triệu con. Bác là người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt Nam, người mở ra con đường cứu nước cho dân tộc không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Tiêu biểu là tập thơ “Nhật kí trong tù”, “tập thơ đã tỏa ra ánh sáng của bậc đại nhân, đại trí, đại dung” được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Nổi bật trong 134 bài thơ ấy là bài thơ số 31 “Mộ” (Chiều tối) mang đậm vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được kết hợp hài hòa tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt của tác phẩm.

“Chiều tối” được sáng tác khi Bác bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo vào cuối năm 1942. Vẻ đẹp khung cảnh thiên nhiên miền sơn cước cùng với tâm hồn, tâm trạng thi nhân là tiền đề để Bác sáng tác bài thơ mang nhiều giá trị sâu sắc và đặc trưng nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại.

Vậy thế nào là vẻ đẹp cổ điển? Đó là sự tuân thủ các đặc trưng của thi pháp văn học trung đại nó mang tính quy phạm, tuân theo một quy luật, một khuôn mẫu có sẵn, sử dụng các điển tích, điển cố, bút pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình…nói chung với sự tuân thủ đó nó hạn chế sáng tạo cá nhân nhưng lại mang nét đẹp cổ kính, trang nhã. Còn vẻ đẹp hiện đại là sự phá vỡ tính quy phạm, cách tân nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo và cái tôi cá nhân của tác giả, mang xu hướng bình dị trả văn học về với hiện thực cuộc đời, gần gũi trong cuộc sống.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ trước hết được thể hiện ở ngôn ngữ và thể thơ. Tác giả sáng tác bằng Hán, sử dụng thể thất ngôn tứ tuyệt chỉ với bốn câu thơ bảy chữ, ý thơ bị dồn nén trong câu từ nhưng đã thực sự vẽ lên được bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi đây.

Nét cổ điển trong cảm hứng sáng tác. Chiều về là khoảng thời gian đượm buồn đối với những người xa quê, nó khiến cho con người ta khắc khoải nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Ta đã từng bắt gặp nỗi nhớ ấy trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của bà Huyện Thanh Quan, hay nhà thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng trên sông lúc hoàng hôn mà bâng khuâng: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Ở đây nhà thơ cũng vậy, Hồ Chí Minh lấy cảm hứng chiều hoàng hôn nơi đất khách quê người mà thể hiện tình cảm của mình.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được quện vào nhau thể hiện xuyên suốt trong toàn bài ở từng hình ảnh thơ. Trước hết là ở hai hình ảnh nổi bật của thiên nhiên với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng. Đó là cánh chim mỏi và chòm mây cô đơn:

    “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

    Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Hai hình ảnh đặc tả thời gian, không gian lúc chiều tà rất quen thuộc. Cánh chim ấy, đám mây ấy đã từng xuất hiện trong thơ của Lí Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vận độc khứ hàn”. Tuy nhiên cánh chim của Hồ Chí Minh không bay vút vào trong trời xanh mà nó vận động trong khoảnh khắc mỏi mệt sau một ngày vất vả muốn tìm chốn nghỉ. Với bút pháp đường thi nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn mênh mông, bao la của bầu trời. Cánh chim ở đây cũng mang nét hiện đại đó là cánh chim bay có phương hướng, có mục đích và điểm dừng rõ ràng, cánh chim không chỉ được tả ở bên ngoài mà còn được cảm nhận từ bên trong là chim mỏi mệt tạo nên nét riêng của Hồ Chí Minh. Hình ảnh thứ hai là chòm mây cô đơn nhưng trong bản dịch chưa thể hiện được từ “cô” chỉ tâm thế tồn tại cô đơn, cô độc. Ta đã từng bắt gặp đám mây trong thơ Thôi Hiệu: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” hay đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến. Chỉ với hai hình ảnh là linh hồn của thiên nhiên tác giả không hề sử dụng một từ nào nhắc đến buổi chiều nhưng đã gợi ra được không gian, thời gian với nét đẹp bình dị, yên ả lúc chiều tà. Nhà thơ sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình trong thơ ca trung đại. Nói về cảnh vật bên ngoài nhưng thực chất là thể hiện tâm trạng bên trong con người ẩn sau lớp ngôn từ cần được giải mã. Hồ Chí Minh tả cánh chim mỏi phải chăng sau một ngày tù lê bước chân đi Bác cũng đã thấm mệt, cũng mong muốn được dừng chân nghỉ ngơi, muốn được tự do như cánh chim ấy. Tả chòm mây cô đơn, trôi chầm chậm trên bầu trời cũng là để gợi thân phận, hoàn cảnh của bản thân đang cô độc, băn khoăn không biết đi đâu về đâu. Dù chân dung người tù không được nhắc đến nhưng ta vẫn thấy hiện lên tư thế ung dung, phong thái tĩnh tại không hề có chút mệt mỏi, buồn bã, bất lực. Phải là một con người yêu thiên nhiên vô cùng dù ở trong lúc chân xiềng xích vẫn có thể bình thản ngắm nhìn từng khoảnh khắc vận động của cảnh vật. Người cũng phải có một nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh cá nhân mới có thể ung dung trong tư thế, tự do trong tâm hồn đến vậy. Xiềng xích, gông cùm có thể giam cầm thể xác nhưng không thể trói buộc được thế giới tinh thần của Người.

Nét cổ điển và hiện đại còn được thể hiện ở hai câu thơ cuối miêu tả cuộc sống và con người miền sơn cước. Ở đây tập trung chủ yếu là nét đẹp hiện đại khi ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động trong cuộc sống đời thường của con người:

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

    Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối/ xay hết lò than đã rực hồng). “Cô em” trong bản dịch dường như nó làm mất đi sự trân trọng mà Bác dành cho người lao động và chưa thể hiện được đúng nghĩa của từ “thiếu nữ” trong nguyên tác. Nét cổ điển được thể hiện ở bút pháp vẽ mây nảy trăng, lấy ánh sáng để tả bóng tối. Trong nguyên tác chữ Hán không hề nhắc đến từ tối nhưng vẫn gợi ra cho người đọc thấy được đêm tối đang bao phủ với hình ảnh bếp lửa sáng rực, tuy nhiên trong bản dịch thơ cho thêm từ “tối” làm mất đi sự thú vị của ý thơ. Hình ảnh thiếu nữ đang lao động trong đêm với công việc nặng nhọc, vất vả được thể hiện qua nghệ thuật điệp vòng cấu trúc ở cuối câu ba, đầu câu bốn cho thấy sự kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới trong sự vận động lặng lẽ của thời gian từ chiều cho đến đêm tối. Con người hiện lên trên bức tranh thiên nhiên trong thơ xưa thường là những người thuộc tầng lớp thượng lưu ít có hình ảnh nào lại bình dị như trong bài thơ của Bác. Chính con người lao động ấy đã làm rực sáng lên trong không gian tĩnh lặng, u tối. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được nhiều ý kiến cho rằng đó là nhãn tự, là con mắt thơ trong toàn bài, nó tỏa lên ánh sáng của hiện thực, ánh sáng của tương lai. Qua đó cho thấy sự đồng cảm, thương xót của Bác dành cho cuộc sống con người cơ cực, vất vả. Tình cảm ấy Bác không chỉ dành cho người nông dân Việt Nam mà nó bao la, rộng lớn dành cho tất cả những người lao động trên thế giới. Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”. Tấm lòng yêu đời thương người của Bác mênh mông, sâu sắc đúng như Tố Hữu đã từng nói: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người” nó đối lập hoàn toàn với câu nói của Nam Cao “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” làm nên giá trị nhân văn cao đẹp trong phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.

Để có được một bài thơ hay, giàu giá trị vừa mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thi nhân ắt hẳn phải là một con người tài năng và am hiểu về văn học nghệ thuật. Có nét cổ điển là bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình trí thức, ngay từ nhỏ Người đã được đọc sách thánh hiền, thấm nhuần triết lí nho gia và tiếp thu tinh hoa nền văn học Trung Quốc. Có nét hiện đại bởi Người đã từng có 30 năm bôn ba nước ngoài học tập văn hóa, văn học phương Tây, đi đây đi đó nhiều nơi tiếp xúc với nhiều mảnh đời nhân loại làm nên bản sắc cá nhân độc đáo riêng biệt.

Như vậy bài thơ “Chiều tối” là sự thành công của việc kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và cách tân hiện đại, giữa sự rung cảm tâm hồn của thi sĩ với tinh thần thép của người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm đã để lại cho độc giả nhiều ấn tượng và suy ngẫm về phẩm chất đạo đức của Người.

Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy và Chiều tối

Nền độc lập dân tộc bị xâm lăng, đất nước bị thù trong giặc ngoài giày xéo, người dân lầm than cơ cực, chính người chiến sĩ cộng sản cùng với nhân dân làm nên sức mạnh dân tộc đánh tan quân thù. Người chiến sĩ không chỉ có mặt trên chiến trường bom đạn mà trong mặt trận văn học họ cũng được các nhà văn nhà thơ khắc họa. Tiêu biểu cho hình tượng người chiến sĩ Việt Nam với tình yêu Tổ quốc, lòng yêu thương con người và niềm tin vào lí tưởng cách mạng được thể hiện trong hai bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu cho ta hiểu thêm về phẩm chất người chiến sĩ cộng sản ở thời kì trước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Đông Dương. Từ bấy lâu người đã thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và đưa chúng áp dụng vào hoàn cảnh thực tế cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” được Bác sáng tác khi đi sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ Quốc tế thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ trong suốt mười ba tháng. Bài thơ “Chiều tối” sáng tác khi Bác bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo, cảm hứng chiều tà cùng với tâm hồn thi sĩ đã làm nên một bức tranh thiên nhiên và con người tuyệt đẹp.

Tố Hữu cũng là người chiến sĩ cách mạng thuộc thế hệ sau Hồ Chí Minh nhưng giữa hai con người ấy có cùng chung một lí tưởng cộng sản, chính Bác và Đảng là ánh sáng soi đường cho tầng lớp trí thức trẻ như Tố Hữu đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” gặp được ánh sáng của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” là mốc son đánh dấu sự kiện quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu vào năm 19378 khi ông chính thức được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tác phẩm thể hiện niềm sung sướng, hạnh phúc, niềm tin của người chiến sĩ vào Đảng và sự chuyển biến về nhận thức, tình cảm trong Tố Hữu.

Hình tượng người chiến sĩ có ở trong hai bài thơ với những nét tương đồng và khác biệt chúng ta cùng phân tích, tìm hiểu để làm sáng tỏ vẻ đẹp của những con người làm nên hình hài đất nước. Trước tiên người chiến sĩ trong bài “Chiều tối” của Hồ Chí Minh là một con người có tình yêu thiên nhiên, nhạy cảm với sự biến đổi của ngoại cảnh. Dù là cả một ngày đường di chuyển mệt mỏi nhưng Bác vẫn có thể lắng mình cảm nhận sự chuyển biến khi chiều về đó là hình ảnh cánh chim bay mỏi, là đám mây cô độc trên bầu trời: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ/ Cô vân mạn mạn độ thiên không” (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không). Cánh chim ở đây không chỉ được đặc tả ở bên ngoài mà còn được thi nhân cảm nhận từ bên trong là “chim mỏi” sau một ngày bị lạc đàn và kiếm ăn vất vả giờ đây đang bay tìm chốn ngủ. Cánh chim có sự đồng điệu và đối lập với thi nhân. Người tù ấy sau một ngày lê bước trên đường giờ đây cũng đã thấm mệt cũng muốn được nghỉ ngơi. Đối lập vì chim có sự tự do bay lượn trên bầu trời còn nhà thơ thì đang là một người tù bị giam cầm xiềng xích. Qua đó thể hiện ước muốn được trả lại tự do cho bản thân của Bác. Hình ảnh đám mây cô đơn trên bầu trời trong bản dịch chưa được thể hiện tuyệt đối nhưng phần nào đã toát lên tâm trạng của thi nhân gửi gắm trong đó. Nhà thơ sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình trong thơ ca trung đại. Nói về cảnh vật bên ngoài nhưng thực chất là thể hiện tâm trạng bên trong con người ẩn sau lớp ngôn từ cần được giải mã. Tả chòm mây cô đơn, trôi chầm chậm trên bầu trời cũng là để gợi thân phận, hoàn cảnh của bản thân đang cô độc, băn khoăn không biết đi đâu về đâu. Như vậy chỉ với hai nét chấm phá đặc trưng nhưng đã gợi lên được cảnh hoàng hôn đã về. Người chiến sĩ ấy là một con người yêu đất nước sâu nặng bởi khi chiều tà là lúc tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương của người khách lữ thứ trở nên da diết, khắc khoải. Khép lại hai câu thơ đầu tả cảnh thiên nhiên lúc hoàng hôn, dù chân dung người tù không được hiện lên nhưng ta có thể cảm nhận người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh có một tinh thần kiên cường bất khuất. Người ở trong hoàn cảnh gông cùm, xiềng xích nhưng vẫn ung dung, tự do tự tại về tâm hồn để cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, sáng tác thơ ca.

Người chiến sĩ ấy luôn có sự đồng cảm với những người nghèo khổ, có trái tim nhân ái yêu thương con người. Điều đó được thể hiện trong bức tranh cuộc sống ở miền sơn cước: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc/ Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”. (Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng). Con người ở đây đang phải lao động vất vả cực nhọc, đó là hình ảnh bé gái đang xay ngô từ chiều cho đến đêm tối. Thời gian cứ thế trôi đi con người cứ miệt mài làm hết việc này lại nối tiếp công việc khác, xay ngô xong thì lò than đã rực hồng. Chính con người lao động ấy đã làm rực sáng lên trong không gian tĩnh lặng, u tối. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được nhiều ý kiến cho rằng đó là nhãn tự, là con mắt thơ trong toàn bài, nó tỏa lên ánh sáng của hiện thực, ánh sáng của tương lai. Qua đó cho thấy sự đồng cảm, thương xót của Bác dành cho những con người cơ cực, vất vả. Tình cảm ấy Bác không chỉ dành cho người nông dân Việt Nam mà nó bao la, rộng lớn dành cho tất cả những người lao động trên thế giới. Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”. Tấm lòng yêu đời thương người của Bác mênh mông đúng như Tố Hữu đã từng nói: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người” nó đối lập hoàn toàn với câu nói của Nam Cao “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” làm nên giá trị nhân văn cao đẹp trong phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh. Người chiến sĩ ấy luôn có một niềm tin vào cách mạng, luôn hướng về một tương lai tươi sáng ở ngày mai được thể hiện qua sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ hiện đại đến tương lai. Đó là một tư tưởng cao đẹp của Bác được thể hiện trong thơ ca.

Còn hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ “Từ ấy” thì như thế nào? Đó là niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp ánh sáng của Đảng được Tố Hữu ví tâm hồn mình như “Vườn hoa lá”, “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Tố Hữu đã dùng hình ảnh “Mặt trời chân lí” để ẩn dụ cho ánh sáng bất diệt mà Đảng đem tới, với các động từ mạnh “bừng” “chói” chỉ sự bất ngờ và xuyên thấu vào trong tư tưởng, trái tim người lính. Lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất ngờ đến xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Trong một bài thơ ông có viết: “Từ vô vọng mênh mông đêm tối/Người đã đến chói chang nắng dọi/ Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu/ Sống lại rồi”. Hạnh phúc biết bao nhiêu” để cất lên tiếng hát ca ngợi Đảng và Bác Hồ. Trong Tố Hữu chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng luôn là nguồn sống lí tưởng.

Từ những niềm vui, sung sướng tràn ngập ấy trong tư tưởng nhà thơ có sự chuyển biến về nhận thức và tình cảm. Nhận thức ấy khác với nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn khi đã xa rời nhân dân để rồi nhận lại bi kịch, còn Tố Hữu đã xác định hòa cái tôi cá nhân của mình vào cái ta chung của cộng đồng, xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được thể hiện trong khổ thơ thứ hai: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người/…Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, tinh thần gắn bó “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời. Tố Hữu luôn luôn gần gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc là những cảnh đời cơ cực. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mạng cũng là để chỉ tinh thần đoàn kết của đồng bào Việt Nam làm nên sức mạnh dân tộc. Tình cảm của ông giờ đây không còn là sự vị kỉ cá nhân của tần lớp trí thức mà thay vào đó là tình hữu ái giai cấp dành cho những người đồng khổ như anh chị em ruột thịt trong gia đình. Nhà thơ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”, “Là em của vạn kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ”. Tình cảm ấy thật chân thành và đáng quý biết bao.

Như vậy qua phân tích hai tác phẩm ta thấy hình tượng người chiến sĩ hiện lên những nét tương đồng. Họ cùng là những con người có trái tim chân ái giàu lòng yêu thương, luôn tin vào lí tưởng cách mạng, tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đều mượn vẻ đẹp của thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng cá nhân. Tuy nhiên cũng có những nét khác biệt bởi tính sáng tạo cá nhân trong sáng tác. Nếu Hồ Chí Minh là vị lão thành cách mạng với hồn thơ thâm trầm sâu sắc mang đậm chất cổ điển và hiện đại đan xen thì Tố Hữu là người trí thức trẻ vừa được giác ngộ bởi lí tưởng cách mạng mang với tính hiện đại, trong thơ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc đậm chất trữ tình cách mạng.

Qua hai bài thơ hình tượng người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đáng kính đáng phục bởi tinh thần yêu nước thương dân, niềm tin bất diệt vào ánh sáng của Đảng. Qua đó cho em hiểu thêm về phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ đáng để học tập và noi theo. Tuy nhiên trong xã hội ngày nay có một bộ phận nhỏ chiến sĩ quân đội, công an nhân dân_những “Con sâu làm rầu nồi canh” đã, đang làm xấu đi hình ảnh ấy. Hy vọng Đảng và nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh để dìu dắt nhân dân xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn.

Như vậy hình tượng người chiến sĩ trong tác phẩm “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu đã làm sống dây tinh thần cách mạng, vẻ đẹp của những con người đã góp phần làm nên hình hài đất nước. Hình tượng ấy sống mãi trong lòng người dân Việt Nam.

Nguồn: vietjack