Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Xưng hô trong hội thoại

Lý thuyết
Mục lục
* * * * *

Câu 1 (Trang 39 – SGK)

Có lần, một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ:
 “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”.
Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?

Hướng dẫn giải

  • Lời mời dự đám cưới có dòng chữ “Ngày  mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự” là có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ.
  • Theo cách nói của các ngôn ngữ Ấn – Âu, cô sinh viên không phân biệt chúng ta (bao gồm cả người nghe) với chúng tôi (không bao gồm người nghe) trong khi người Việt Nam lại có sự phân biệt này. Đây là lỗi dễ măc ở những người châu Âu mới học tiếng Việt do thói quen bản ngữ chi phối.

Câu 2 (Trang 40 – SGK)

Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?

Hướng dẫn giải

  • Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả chỉ là một nhưng vẫn xưng chúng tôi vì người viết muốn :
    • Thể hiện tính khách quan của các luận điểm.
    • Thể hiện sự khiêm tốn của người viết.
  • Ngoài ra còn thể hiện thái độ khiêm tốn của tác giả.

Câu 3 (Trang 40 – SGK)

Đọc đoạn trích trong Thánh Gióng. Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?

Hướng dẫn giải

  • Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường.
  • Khi xưng hô với sứ giả thì dùng: ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường. Thể hiện cậu là một đứa trẻ khác thường, có thể làm nên chuyện lạ. Mặt khác, điều đó cũng báo trước rằng đối với bà mẹ, Gióng chỉ là đứa trẻ, nhưng đối với quốc gia, xã hội, Gióng sẽ là người anh hùng.

Câu 4 (Trang 40 – SGK)

Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện
Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là…
  Người thầy giáo già hoảng hốt:
- Thưa ngài, ngài là…
- Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…

Hướng dẫn giải

Câu chuyện về một vi danh tướng trên đường đi kinh lí, ghé vào thăm trường cũ.

  • Vị tướng, tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng khi gặp lại thầy giáo cũ, vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng em. Địa vị của người học trò cũ đã thay đổi từ đó có thể kéo theo quan hệ và cách xưng hô cũng thay đổi nhưng người học trò vẫn xưng hô theo cách cũ. Nó thể hiện sự kính cẩn và biết ơn thầy giáo cũ..
  • Cách xưng hô của người thầy với vị tướng thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình. Câu chuyện trên khuyên chúng ta phải biết "tôn sư trọng đạo".

Câu 5 (Trang 40 – SGK)

Đọc đoạn trích từ Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp kể). Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)

Hướng dẫn giải

Trước cách mạng tháng tám 1945, nước ta là một nước phong kiến, nhà vua xưng trẫm với dân chúng để thể hiện sự uy nghi, cách biệt. Việc Bác Hồ - người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, xưng "tôi" và gọi dân chúng là "đồng bào" tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết, tạo sự thân mật giữa người nói với người nghe.

(đồng bào: những người cùng một bọc sinh ra, y coi nhau như ruột thịt).

Câu 6 (Trang 41 – SGK)

Đọc đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chú ý những từ ngữ in đậm. 

Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:

Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:

- Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!

Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:

Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với con cho! Chứ ông lí tôi thì không cso quyền dám cho chị khất thêm một giờ nào nữa.

Chị Dậu run run:

Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất...

Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:

Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất?

Chị Dậu vẫn thiết tha:

- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!

Cai lệ giọng vẫn hầm hè:

- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!

Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:

- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!

Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắ cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.

Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:

Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!

- Tha này! Tha này!

Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.

Hình như tức quá không thể chịu được nữa, chị Dậu liều mạng cự lại:

- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!

Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu. 

Chị Dậu nghiến hai hàm răng:

Mày trói chồng  đi, bà cho mày xem!

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.

Hướng dẫn giải

  • Đoạn đầu, cách xưng hô ở lời nói của cai lệ nói với anh Dậu, chị Dậu: thằng kia, ông, mày, chị… thể hiện rõ sự cách biệt về địa vị và hoàn cảnh giữa các nhân vật.
    • Chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông;
    • Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền, cậy thế nên hống hách, thể hiện sự hống hách, trich thượng.: xưng hô ông – thằng kia, mày.
  • Sang đoạn sau, cách xưng hô thay đổi. Chị Dậu chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự "tức nước – vỡ bờ", sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.

Có thể bạn quan tâm