Nghị luận về ý kiến: Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người
Gửi bởi: Khoa CNTT - HCEM 18 tháng 1 2021 lúc 10:47:47 | Được cập nhật: 18 giờ trước (16:52:05) Kiểu file: DOC | Lượt xem: 510 | Lượt Download: 3 | File size: 0.195072 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Những bài văn đoạt giải Nhất HSG Quốc gia và điểm 10 thi Đại học
- 185 nhận định về văn học
- Tài liệu ôn tập HKII năm học 2020-2021 môn Ngữ Văn 12 chương trình cũ, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về lòng khoan dung
- Ôn tập kĩ năng làm bài Ngữ Văn 12
- Đề cương ôn tập nghỉ dịch covid năm học 2019-2020 môn Ngữ Văn 12, trường THPT Dương Xá - Hà Nội
- Đề cương ôn thi giữa kì HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 12, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021
- Khối 12 - Đề cương kiểm tra giữa kì môn Ngữ Văn HKII, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KTGK II NGỮ VĂN 12, TRƯỜNG THPT BẢO LỘC, NĂM HỌC 2020-2021.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Nghị luận về ý kiến: Văn học và đời sống là những vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người
Đề bài: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người” (Nguyễn Minh Châu - Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ).
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên?
1. Dàn ý chi tiết Nghị luận Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người
a. Giải thích:
- Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống như hai vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm khám phá của nghệ thuật chính là con người. Con người vừa là
điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn
học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội,
mọi sự kiện và biến cố lịch sử.
– Tác phẩm văn học lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện
thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng
đồng nhưng ý kiến trên còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết
phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả
chiều sâu của nó.
- Nhà văn có tình yêu thương tha thiết với con người, mang một mối quan
hoài thường trực về số phận và những nỗi đau khổ của con người ở xung quanh
mình. Nhà văn muốn dùng ngòi bút của mình tham gia trợ lực cho con người trong
cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng thời luôn đặt niềm tin vào con người,
ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người. Tư tưởng nhân bản là cơ sở
vững chắc của mọi tìm tòi, khám phá sáng tạo của nhà văn.
- Chính vì lấy con người làm tâm điểm khám phá, nên yêu cầu nhà văn phải
là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất
là tình yêu thương con người. Đây là một trong những tư chất cần có, một phẩm
chất cao đẹp của người nghệ sĩ.
- Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương
chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng
kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và
trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với
tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con
người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào
sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.
- Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải
bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách
để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn
bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào
bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
b. Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa chứng minh ý kiến trên
b1. Số phận và vẻ đẹp con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời
hậu chiến là một khám phá mới của Nguyễn Minh Châu sau 1975:
- Số phận éo le, đau thương và đầy nghịch cảnh của người đàn bà hàng chài.
- Vẻ đẹp tâm hồn: tình mẫu tử cao đẹp; lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh…
của người phụ nữ .
b2. Tư tưởng của Nguyễn Minh Châu qua sự khám phá đó:
- Cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ nữ; đau đớn
trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những bi kịch của con người trong cuộc
sống thời bình.
- Nỗi khắc khoải, băn khoăn, trăn trở, suy tư sâu lắng của nhà văn về những
vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật:
+ Đời sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những nghịch lý nên
liệu có thể nhìn cuộc đời bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi, xuôi chiều?
+ Chiến tranh đã qua đi nhưng cuộc đời của những con người lao động
nghèo khổ sẽ như thế nào, liệu có tươi sáng hơn? Tương lai của những đứa trẻ như
thằng Phác sẽ ra sao? Phải chăng cuộc chiến chống đói nghèo, tăm tối còn gian
nan, quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống ngoại xâm? Phải chăng đã đến lúc
chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người
ngày một tốt hơn; đã đến lúc văn học phải viết về con người, trước sau con người
cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống?
+ Người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào về mối quan hệ giữa hiện thực đời
sống và văn chương nghệ thuật? Nghệ thuật tiếp cận hiện thực ra sao để không bỏ
quên số phận con người? Phải chăng tác phẩm là một lời nhắc nhở hay là một niềm
tin sâu xa của Nguyễn Minh Châu về sứ mệnh cao quý của người cầm bút?
2. Bài văn mẫu Nghị luận Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người
Giây phút cậu bé Anđécxen chào đời giữa thung lũng Ôđenzơ thuộc đảo
Finn, nơi có những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tím
nên thơ…, chưa một ai có thể khẳng định rằng: Cậu bé ấy là một thiên tài cổ tích.
Nếu không trải qua quãng đời thơ ấu trong nhà gỗ của ông thợ giày nghèo, nếu
không lắng nghe âm thanh cuộc sống từ chiếc cối xay gió vù vù, từ giếng nước
đóng rêu xanh ngắt, nếu không lăn lộn vào đời để rồi có lúc chua xót tự ví mình
“như một con chó chết trôi bị lũ trẻ ném đá cho thỏa lòng vui thích”…, Anđécxen
sẽ vĩnh viễn là một kẻ vô danh nào đó chứ không phải là bậc thần tiên tung hoành
trên những trang cổ tích là say mê triệu triệu trái tim nhân loại.
Bao giờ cũng thế, văn học – cuộc sống – con người là những yếu tố không
thể tách rời nhau để tồn tại riêng biệt. Dường như có một sợi dây vô hình buộc chặt
văn học và cuộc sống, tạo nên mối quan hệ vô cùng mật thiết và sâu sắc như lời
phát biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.
Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống
con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.
Ta biết một Nguyễn Minh Châu qua ngòi bút văn chương sắc sảo luôn khơi
dậy trong lòng độc giả nhiều lớp sóng suy tư, băn khoăn, ray rứt về cuộc đời, về
những người xung quanh, về chính bản thân mình. Một nhà văn đầy bản lĩnh và
kinh nghiệm như thế tất nhiên sẽ có một nhận thức sâu sắc đầy đủ về mối quan hệ
giữa đời sống với văn chương. Ở câu nói của Nguyễn Minh Châu, ta bắt gặp một
hình ảnh so sánh độc đáo. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm – mà
tâm điểm là con người”. Quả là một hình ảnh ví von thú vị, cô đọng mà chứa đựng
ý tưởng rất sâu! Hai vòng tròn văn học và đời sống không tách rời nhau mà chúng
cùng xuất phát từ một tâm điểm, nghĩa là hình ảnh, bóng dáng của triệu triệu sự
vật, hiện tượng trong cuộc đời và trên những trang văn học là một. Như một quy
luật của tạo hóa, văn học và đời sống luôn luôn tồn tại trong mối tương quan hòa
quyện vào nhau, hỗ trợ cho nhau để cùng “sống“ mãi. Là một nhà văn hay một thi
sĩ, bao giờ anh cũng phải đắm mình vào cuộc sống, lắng nghe hơi thở và nhịp đập
của đời sống biến đổi từng giây để chắt lọc những gì tinh túy nhất đem vào trang
viết của mình. Tách khỏi cuộc sống, tác phẩm của anh sẽ như cây non không có rễ,
cây sẽ hút nước ở đâu, hút nhựa sống nơi nào để đơm hoa kết trái? Nhà thơ Chế
Lan Viên từng thấm thía sâu sắc về mối quan giữa đời và thơ:
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang.
Chữ của đời, những dòng chữ mượt mà êm tay hay những lớp sóng ngôn từ
xô đẩy, những dòng chữ gợi lên trong lòng người đọc nỗi xót xa hay làm bật lên
tiếng khóc nức nở, nụ cười mỉa mai, nỗi đau quặn thắt... Tất cả đều là những “chữ
của đời”, là chất liệu của cuộc sống muôn hình muôn vẻ mà nhà thơ, nhà văn đang
tồn tại trong lòng của nó. Văn học và đời sống là hai vòng tròn nhỏ hơn, nằm gọn
trong lòng cuộc sống và cuộc sống là vòng tròn lớn hơn nhận ánh phản chiếu lại
bóng hình cuộc sống và hơn thế nữa, văn học còn là sự nghiền ngẫm chiêm nghiệm
về cuộc sống. Chính vì thế có nhà văn đã nói rằng: “Chức năng của văn học là
tiếng chuông thức tỉnh lương tri”. Xuất phát từ cuộc sống, văn học được những bàn
tay nghệ sĩ tôi luyện nhào nặn để từ những “hạt bụi quý” rơi vãi giữa đời sống
mênh mông, văn học xuất hiện dưới hình hài của một “bông hồng vàng” (Pauxtôp-xki), trở lại với đời, dâng tặng cho đời những gì lấp lánh cao quý nhất. Hai
vòng tròn kỳ diệu ấy bắt nguồn từ đâu? Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu, tâm
điểm của chúng chính là con người. Từ thuở quả đất còn là những cánh đồng
nguyên sinh bạt ngàn với những đại dương trùng trùng sóng vỗ cho đến quả đất với
những chiếc phi thuyền có thể vút lên mặt trăng, sao hỏa của thế kỷ XX… con
người không ngừng làm thay đổi thiên nhiên và nâng cao cuộc sống của mình lên
một tầm vóc ngày càng cao hơn. Con người quả thật là tâm điểm của đời sống.
Văn học là chiếc gương phản ánh và chiêm nghiệm về đời sống nên văn học cũng
lấy con người làm tâm điểm trên những trang thơ, trên những dòng truyện ngắn
hay trang tiểu thuyết đồ sộ. Theo nhà nghiên cứu lịch sử nhân loại từng biết đến
hai hình thức sám hối chủ yếu là tôn giáo và nghệ thuật. Nếu ở nhà thờ hay ngôi
chùa, người ta sám hối với Chúa với Phật thì trong văn học, người ta sám hối với
chính mình. Con người với bao tình cảm yêu thương, oán hận, căm hờn, xót xa, sợ
hãi… với bao mối quan hệ rộng rãi, quan hệ giữa người với người, người với thiên
nhiên hoa cỏ, người hình thức với người nội tâm chính mình… Một khi soi bóng
vào tấm kính kỳ diệu của văn chương đều không khỏi ngỡ ngàng vì bắt gặp “cái
tôi” trong ấy. Con người bao giờ cũng là đối tượng chủ yếu của văn học. Ngay cả
những truyện ngụ ngôn mà khi đọc, ta chỉ thấy những con cáo, chùm nho, những
con thỏ, con rùa, con sóc… đấy cũng chính là bóng dáng của con người đấy thôi!
Con người còn “ẩn mình” trên những trang thơ dưới hình ảnh của cảm xúc, của nội
tâm. Có thể nói bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng hướng về con người, viết về
con người và cho con người suy ngẫm, dù đấy là truyện cổ tích của Anđécxen từ
đất nước Đan Mạch xa xôi hay bài thơ trăng lung linh của Lý Bạch hay bài Bình
Ngô đại cáo lộng gió chiến thắng của Nguyễn Trãi năm xưa.
Cuộc sống là một bức tranh với tầm vóc không gian và thời gian vô tận nên
một nhà văn chỉ nắm bắt được một vài khía cạnh trong cái tầm vóc vô cùng ấy. Sự
so sánh tiếp theo của Nguyễn Minh Châu cũng thật xác đáng: “Mỗi tác phẩm văn
học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên
con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.
Hầu hết mỗi nhà văn có phong cách riêng, có một chỗ đứng trong lòng
người đọc trên trái đất này đều khai thác quặng chất liệu từ một mảng nhỏ của đời
sống. Cá biệt có những đại văn hào mà ngòi bút bé nhỏ của họ có thể giãi bày cuộc
sống với tầm vóc sâu rộng của nó trên trang viết. Đấy là Balzac với Tấn trò đời mà
giá trị được sánh hơn tất cả tác phẩm của các sử gia, các nhà kinh tế học, thống kê
học đương thời cộng lại. Hay như nhà văn Lỗ Tấn của Trung Hoa với tác phẩm
lừng danh A Q chính truyện. Lỗ Tấn đã bộc lộ nét tinh hoa thần bút độc đáo qua
hình tượng A Q - nhân vật đã trở thành biểu tượng cho quốc dân tính Trung Hoa
suốt một thời mà dân tộc này mắc chứng bệnh thắng lợi tinh thần, ảo tưởng cho
mình là người chiến thắng ngay trong hoàn cảnh bi đát nhất. Bên cạnh đó, hầu hết
các tác phẩm đều tồn tại dưới những sắc thái riêng vì chúng chỉ là lát cắt từ hai
vòng tròn đồng tâm khổng lồ của văn học và đời sống. Đọc Nam Cao, ta lại hình
dung đến không khí ngột ngạt của những năm 1930 – 1945 với những con người
từng bước chông chênh trên con đường đi tìm nhân cách. Chí Phèo đắm mình
trong một chuỗi cơn say triền miên để phút cuối cùng tự đốt cháy mình lên với
những câu hỏi nhức nhối “Ai cho ta lương thiện?”, một anh Hộ luôn đề cao nguyên
tắc tình thương nhưng lại khốn khổ vì cuộc sống chật hẹp với một vòng tròn cơm –
gạo – áo – tiền khắc nghiệt. Mỗi tác phẩm văn học là một lát cắt của đời sống phản
ánh một nội dung rất cụ thể, một số phận rất rõ nét buộc người đọc phải suy ngẫm,
băn khoăn. Vô số những lát cắt của rất nhiều thời đại ấy cuối cùng đều hướng tới
một mục tiêu tốt đẹp, dẫn dắt con người đi đến cõi hoàn thiện. Có vươn tới mục
tiêu đó, tác phẩm văn học mới thật sự là tác phẩm chân chính và tồn tại vượt qua
sức công phá mãnh liệt của thời gian. Pau-xtôp-xki từng nói về những vần thơ Anđéc-xen với niềm cảm phục: “Anh đã nhặt những hạt giống thơ trên luống đất của
người dân cày rồi gieo chúng trong những túp lều, làm chúng nở thành những đóa
hoa thơ tuyệt đẹp an ủi trái tim của những người cùng khổ”. An-đéc-xen tự nhận
mình là nhà văn của những người nghèo và suốt cuộc đời viết lách ông không một
phút nào phản bội lại đối tượng mà ông phục vụ. Con đường dẫn dắt chúng ta đến
với cõi hoàn thiện, quả thật là rất dài và rất xa. Trên con đường ấy, ta không chỉ
hành trình bằng nhân cách, bản lĩnh của riêng mình mà đôi lúc dừng chân ngơi
nghỉ, chúng ta nên soi lại mình qua những tác phẩm văn chương, bởi vì “Văn học
là nhân học” (M.Gorki). Soi lại mình, chiêm nghiệm lại mình trong tấm gương văn
học, ta sẽ phân biệt hơn lẽ đúng – sai của cuộc đời và những bước chân sẽ vững
chãi hơn, dù cho con đường bên dưới nhiều chông gai và mấp mô sỏi đá. Tác dụng
của văn học chỉ là một lát cắt nhỏ những gì ta lĩnh hội được là vô tận bởi vì “lăng
kính nhìn đời” – nhân sinh quan, thế giới quan – của mỗi con người mang một đặc
điểm riêng. Có thể ta sẽ tìm thấy trong các tác phẩm văn học này những điều mà
người khác không tìm thấy, bởi ta có một nhịp rung cảm riêng, một tần số cộng
cảm riêng. Cuộc sống đi vào văn học lúc nào cũng qua hai lăng kính, một của tác
giả và một của độc giả. Qua hai lăng kính ấy, cuộc sống sẽ gieo vào lòng con
người vô số những cảm xúc suy tưởng và hành động khác nhau nhưng chức năng
và sứ mệnh cao cả nhất củavăn học bao giờ cũng là hướng ta đến “cõi hoàn thiện",
giúp ta sống tốt hơn, có ích hơn đối với mọi người xung quanh, với cuộc sống và
thời đại mà ta đang là một phần tử bé nhỏ trong ấy.
Lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Minh Châu đúc kết từ rất nhiều kinh
nghiệm viết mà ông đã nếm trải, có lẽ đấy cũng chính là tâm niệm, là phương
hướng và cách thức sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt, thưởng thức truyện
ngắn “Bức tranh” của chính tác giả, ta bắt gặp một thứ ánh sáng lóng lánh diệu kỳ
từ quan điểm ấy. Bức tranh là lát cắt về một câu chuyện xảy ra từ thời kháng chiến
chống Mỹ. Một họa sĩ tài hoa được anh chiến sĩ đưa qua những chặng đường rừng
để về Thủ đô triển lãm tranh. Trên đường đi, anh ngỏ ý nhờ ông hoạ sĩ vẽ chân
dung để gửi về cho mẹ. Cảm kích ơn cứu mạng của anh chiến sĩ, ông đã vẽ sau lần
từ chối lời đề nghị của anh. Bức tranh người chiến sĩ gian lao với chứng sốt rét
giữa rừng bỗng nổi tiếng, đưa người họa sĩ lên đỉnh cao danh vọng và ông đã quên
người mẫu cùng lời mình hứa. Trong khi ấy, người mẹ anh chiến sĩ nhớ con khóc
đến lòa mắt và vĩnh viễn không còn trông thấy mặt con dù chỉ qua bức họa. Thật
tình cờ, ông họa sĩ bước vào quán cắt tóc của anh chiến sĩ năm xưa. Giây phút
tương ngộ với cố nhân kéo theo một chuỗi dằn vặt trong câm lặng của ông họa sĩ,
ông sám hối với chính mình qua tấm gương cắt tóc nhỏ bé nghèo nàn ấy.
Truyện ngắn Bức tranh thật trần trụi. Nó không đưa tôi phiêu du cùng những
khóm hồng bạch thơm ngát hay những đôi cánh thiên nga trắng muốt, những vị
công nương lấp lánh vương miện vàng như trang cổ tích Anđécxen mà tôi yêu
mến. Thế nhưng Bức tranh cứ như mối dây vô hình làm tôi dằn vặt, ái ngại, suy
ngẫm nhiều điều nhiều lẽ về cuộc sống hôm nay. Tâm điểm của Bức tranh là con
người, nổi bật là hình ảnh người họa sĩ. Người đọc không sao quên được giây phút
thần hứng giữa khu rừng hoang vu trong không gian mờ ảo của một buổi tinh
sương xa vắng…Giây phút ấy, người họa sĩ đã vẽ một kí họa truyền thần và truyền
được cái thần lên trang vẽ. Cái thần ấy rất độc đáo vì nó phát tiết từ chân dung
người chiến sĩ môi thâm, nước da tái nhợt nhạt vì chứng bệnh sốt rét. Có lẽ nét
thần của bức tranh chứa đựng trong đôi mắt của một con người trung hậu, người
luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, suốt mấy năm ròng chưa được về
phép thăm mẹ, nhưng lòng luôn hướng về quê nhà, người sẵn sàng lội suối cứu ông
họa sĩ và vác trên lưng những bức tranh ảnh giá vẽ suốt đoạn đường cheo leo hiểm
nghèo… Bức tranh chân dung ấy lẽ ra đẹp đến nhường nào nếu nó được đưa đến
tay một người đang mỏi mòn trông ngóng tin con, bà mẹ tội nghiệp của anh chiến
sĩ. Thế nhưng “hạnh phúc chỉ là một tấm chăn quá hẹp, người này co người kia hở”
(Nam Cao), sự đời không trôi xuôi như thế. Bức tranh được người ngắm nơi nơi
nồng nhiệt đón nhận nó và đem hào quang cùng vòng nguyệt quế đội lên đầu ông
họa sĩ tài năng, đồng thời đem bóng tối bao trùm lên đôi mắt người mẹ già tội
nghiệp. Có chút gì xót xa day dứt dấy lên trong tôi. Liệu trong cuộc đời, tôi có
tránh được giây phút ích kỷ hòng đem đến vinh hoa và danh tiếng cho mình
không? Nhân vật người họa sĩ khiến ta bắt gặp chút gì cái tôi trong ấy. Cuộc sống
với những lớp sóng bon chen, vật vã đôi khi xô đẩy người ta vào vực xoáy của cái
xấu bao giờ không hay. Quả thật, ông họa sĩ đã phạm tội mà không biết mình phạm
tội, ông quá say sưa hài lòng trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, xung quanh là những
lời tán tụng, ca ngợi của rất nhiều người... Nếu dừng lại ở đấy, Bức tranh mới chỉ
là tờ biên bản phản ánh cái bất công và sự ích kỷ của con người. Nguyễn Minh
Châu buộc ta phải suy nghĩ nhiều hơn. Gần giống như quy luật “Ác giả ác báo”
trên những trang cổ tích, trái đất xoay tròn đưa người họa sĩ ngồi vào chiếc ghế ở
hiệu cắt tóc mà anh chiến sĩ năm xưa làm chủ, nhìn vào chiếc gương sáng trên
tường để thấy nét dửng dưng lạnh nhạt của cố nhân, chứng kiến nét u sầu trên
gương mặt bà cụ mù lòa và quan trọng hơn cả, ông buộc phải nhìn lại chính mình.
Bức chân dung ông họa sĩ tron gương (mà sau này ông vẽ cách điệu lại riêng cho
mình ngắm) là một bức truyền thần kì diệu thứ hai trong cuộc đời ông. Bức tranh
ấy nửa phần che giấu với bọn xà phòng phủ trắng nửa mặt dưới, nửa phần phanh
phui với với bộ óc như bị phơi ra, lại có phần dằn vặt day dứt khôn nguôi với đôi
mắt mở to khắc khoải. Quán cắt tóc trở thành phiên tòa mà chánh án là lương tâm
của người họa sĩ. Mọi lời xin lỗi ở đây đều hóa thành vô nghĩa. Ông đã hứng chịu
một hình phạt cao nhất bởi sự phán xét của lương tâm. Không gì đau khổ hơn khi
mình phát hiện và day dứt với tội lỗi của chính mình mà chưa dám mở lời thú
nhận…”. Trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”. Bức tranh là một lát
cắt đọng lại trong ta nhiều mối suy tư. Làm sao ta sống hạnh phúc mà không chà
đạp hoặc tước đoạt hạnh phúc của người khác? Có phút nào ta sám hối chưa?
Thông điệp mà Nguyễn Minh Châu gửi đến độc giả thật sâu sắc: Mỗi con người
cần soi lại mình nhiều hơn nữa trong tấm gương lương tâm để thấy rõ cái tôi nó
biến dạng đến mức nào.
Câu nói của Nguyễn Minh Châu ngắn gọn mà ý nghĩa rất hay, rất sâu rất
đáng nghĩ. Văn học – cuộc sống mãi mãi không thể tách rời nhau và cả hai đều
xuất phát, đều hướng về tâm điểm duy nhất: Con người. Tôi chợt nhớ những vần
thơ Tố Hữu.
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên.
Văn học bao giờ cũng gắn liền với cuộc sống – con người để có sức sống trụ
lại với thời gian, để thực hiện chức năng cao cả không một bộ môn khoa học nào
thay thế được, hướng con người đến Chân – Thiện - Mỹ, gột rửa bớt những xấu xa
của cuộc đời phức tạp, góp phần “thanh lọc” tâm hồn và lương tâm con người để
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Câu nói của Nguyễn Minh Châu phải chăng còn là đồng vọng của triệu triệu
ngòi bút chân chính trên quả đất xanh tươi tuyệt đẹp mà chúng ta đang sống?
----------------------