Hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: Thành Đạt 28 tháng 10 2020 lúc 13:30:05 | Được cập nhật: hôm qua lúc 13:25:45 Kiểu file: PDF | Lượt xem: 432 | Lượt Download: 4 | File size: 0.2161 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Phân tích bài thơ Khe chim kêu Ngữ Văn lớp 10
- Đề cương ôn thi HKI Ngữ Văn 10, trường THPT Xuân Đỉnh - Hà Nội năm học 2020-2021.
- Đề cương ôn tập kiểm tra giữa học kì II Ngữ Văn 10 chương trình chuyên, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- Đề cương ôn tập kiểm tra giữa học kì II Ngữ Văn 10 chương trình cơ bản, trường THPT Chuyên Bảo Lộc, năm học 2020-2021
- Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Ngữ văn 10), trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
- HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA (NGỮ VĂN 10), TRƯỜNG THPT QUỐC OAI - HÀ NỘI.
- TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ (TRÍCH CHINH PHỤ NGÂM - ĐẶNG TRẦN CÔN), TRƯỜNG THPT QUỐC OAI - HÀ NỘI.
- Tác giả Nguyễn Du (Ngữ văn 10), trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
- Hồi trống cổ thành Ngữ Văn 10 , trường THPT Quốc Oai - Hà Nội
- Ngữ văn 10 Trao duyên, trường THPT Quốc Oai - Hà Nội.
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến chống Pháp
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân
tộc. Chiến tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa
thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến
công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng
chiến chống Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách
mạng.
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân
tộc. Chiến tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa
thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến
công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng
chiến chống Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách
mạng.
Kháng chiến bùng nổ, người trai lên đường ra chiến trận theo Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ chủ tịch kính yêu – lời kêu gọi của non
sông. Lòng người không khỏi luyến tiếc cảnh thanh bình cũ khi bước chân
lên đường vào mặt trận. Đó là mùa thu Hà Nội đầy lưu luyến :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Hay một làng quê Kinh Bắc trù phú, tươi đẹp, nay đã chìm trong máu lửa
của quân thù :
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm )
Quê hương càng tươi đẹp thì lòng người càng xót xa nhớ tiếc và quyết ra đi
để dẹp tan kẻ thù giày xéo quê hương. Cảm hứng lãng mạn với khí khái
“tráng sĩ” là cảm hứng chủ đạo về hình tượng người lính những ngày đầu
cách mạng. Người chiến sĩ mang dáng dấp của chàng Kinh Kha năm xưa khi
bước chân vào mặt trận :
Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi ?
Quê hương mong đợi đã bao đời
Biên thùy nghe dậy niềm ai oán
Gươm hận mài chưa ? Khát máu rồi. ( Biết gửi đưa ai – báo Vệ Quốc )
Đó là tâm trạng của những ngày đầu xung trận còn vương lại chút mơ mộng
của thời thanh bình đã mất
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi nắng gió hoa ngàn cỏ dại. ( Ngày về – Chính Hữu )
Họ đi vào chiến trường với những hình ảnh đẹp nhất, anh dũng nhất và cũng
đầy chất lãng mạn nhất :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. ( Tây Tiến – Quang Dũng )
Đó là hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đầy gian khổ : ăn
đói, mặc rét, sốt rét đến xanh da trụi tóc. Người chiến sĩ vô danh ấy vẫn tiếp
bước trên đường với lòng yêu nước khôn nguôi, cho dù có phải nằm lại nơi
chiến trường :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aùo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ( Tây Tiến – Quang Dũng )
Nhưng rồi bom đạn, chết chóc, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Hiện thực
cuộc sống đã khiến cho họ không còn những mơ mộng của ngày đầu nhập
ngũ. Hình tượng thơ có sự vận động đi từ lãng mạn đến hiện thực. Điều đó
cũng là điều phù hợp với những vận động biến đổi trong tâm hồn người
chiến sĩ. Như chính Chính Hữu tâm sự : “ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ,
là chính trị viên, hằng ngày tôi phải chăm nom chôn cất những đồng đội của
tôi đã hy sinh và tôi có nhận xét : bạn tôi, không có người nào chết trong
động tác nằm ngủ, trong tư thế nghỉ ngơi. Họ đều hy sinh trong khi đang
bắn, hoặc ôm bộc phá xông lên. Nhận xét này đã trở thành sự day dứt, âm ỉ,
nó trở thành một vấn đề trách nhiệm. Và một lúc nào đó, từ trong kỷ niệm,
một cách bất ngờ nhất, nó đã hiện lên thành những câu trọn vẹn :
Bạn ta đó
Chết trên dây thép ba từng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Oâi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công
Đó là hình ảnh đeo đuổi suốt đời tôi về những cái chết, chỉ có tác dụng thôi
thúc chúng ta đứng lên”. Có lẽ vì vậy mà hình ảnh người chiến sĩ không còn
gắn với “bụi trường chinh” và “áo hào hoa” nữa, mà đã trở thành người Vệ
quốc quân trong tình đồng chí, đồng đội, cùng chiến đấu vì lòng yêu tổ quốc
:
Anh với tôi, đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu gác bên đầu,
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ
Đồng chí ! ( Đồng chí – Chính Hữu )
Từ khắp mọi miền đất nước, những con người yêu nước tụ hội với nhau
trong cuộc kháng chiến gian khổ. Họ là những thanh niên trí thức Hà thành,
lên đường theo tiếng gọi nhập ngũ :
Kháng chiến bùng lên biệt thủ đô
Lên đường dẻo bước khoác ba lô ( Tự thuật – Tú Mỡ )
Hay những người nông dân chân chất, “chưa biết chữ”, “súng bắn chưa
quen”, “quân sự mươi bài”. Tất cả người con đất Việt đã đến và chiến đấu vì
đất mẹ yêu thương :
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Phần lớn họ ra đi từ những làng quê nghèo khó :
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá ( Đồng chí – Chính Hữu )
Họ bỏ lại đó là cả quãng đời chìm trong đói khổ, là cuộc sống nông thôn đầu
tắt mặt tối mà không đủ no :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay ( Đồng chí – Chính Hữu )
Hay :
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bản thân họ thì thiếu thốn, cực khổ trăm bề, bệnh tật khổ sở :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi
Aùo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt già
Chân không giày ( Đồng chí – Chính Hữu )
Ngay cả đến trang bị họ cũng phải “ Lột sắt đường tàu, Rèn thêm đao kiếm”.
Từ chỗ nghèo khó họ trở thành những người tri kỷ, cùng chung chí hướng
“cùng nhau chung sống căm thù giết Tây”. Họ chia nhau từng hơi ấm đôi
bàn tay ( Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ) rồi lại :
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Những mất mát của họ thật là to lớn. Không biết bao nhiêu đồng đội của họ
đã lần lượt hy sinh, vĩnh viễn nằm lại chiến trường :
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ ( Viếng bạn – Hoàng Lộc )
Kể sao cho hết nỗi đau của người chiến sĩ khi hay tin những người thân yêu
của mình đã mất dưới bom đạn của kẻ thù. Tuy có bi thảm, đau thương,
nhưng chính điều đó lại càng tố cáo mạnh mẽ hơn tội ác của kẻ thù, càng
nung nấu mãnh liệt hơn ý chí “căm thù giặc” nơi người Vệ quốc quân. Hình
ảnh của những người em gái, những người yêu mãi mãi nằm xuống đi vào
thơ ca như những hình ảnh xúc động nhất. Đó là người vợ trẻ nơi hậu
phương ngã xuống :
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương…tàn lạnh vây quanh. ( Màu tím
hoa sim – Hữu Loan )
Hay người em gái chết anh dũng nơi quê nhà :
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung. ( Núi đôi – Vũ Cao )
Đó là nỗi căm hận họ đành chôn kín vào lòng :
Ai biến tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi : em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. ( Núi đôi – Vũ Cao )
Những đau thương mất mát đó như tiếp thêm sức mạnh cho họ nơi chiến
tuyến để tìm câu trả lời cho những đau thương của họ và cả dân tộc. Họ lao
vào chiến dịch với thế tiến công như nước vỡ bờ như Nguyễn Đình Thi kể
lại : “Hình ảnh những đoàn dân công tới tấp đến chiến trường, bộ đội ào ào
đi vào chiến dịch gợi lên một cái gì rất mạnh mẽ của không khí tức nước
tràn bờ
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Tôi viết : “Người lên như nước vỡ bờ!” chính là nói đến sức mạnh ấy của
quân đội ta, của quần chúng cách mạng”. Đó là khí thế hừng hực đấu tranh
của những ngày khói lửa :
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chè lưng cứu pháo
Nát chân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định, mở đường, cho xe ta lên chiến trường tiếp viện. ( Hoan hô chiến
sĩ Điện Biên – Tố Hữu )
Những ngày chiến đấu anh dũng đã bộc lộ một cách rực rỡ hình ảnh cao đẹp
của người chiến sĩ cụ Hồ: kiên trì vượt qua mọi nguy hiểm, anh dũng quên
mình vì nhiệm vụ. Càng gian khổ, đau thương càng thắp sáng trong họ ngọn
lửa nhiệt tình cách mạng, họ vẫn tiếp tục chiến đấu với tâm thế lạc quan, tin
tưởng vào thắng lợi trước mắt của dân tộc. Hình tượng người lính càng về
giai đoạn sau càng tỏa sáng vẻ đẹp của một quân đội trưởng thành về việc
quân cũng như càng thể hiện tinh thần “vì nước quên thân” của anh bộ đội.
Đó là cuộc sống người lính chịu cực khổ nơi chốn rừng sâu vẫn bám trụ với
làng bản, với dân, giữ vững tinh thần của người dân sau khi sự tàn phá của
giặc đã đi qua :
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen giặc chạy tơi bời
Rừng sâu đói rét không người hỏi han
Đến nay họ về đây
Giữ vừng miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành. ( Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu )
Sống kham khổ, bệnh tật nhưng họ vẫn vui, vẫn đem lại nhịp sống mới cho
làng bản. Và họ vẫn lạc quan trên đường hành quân :
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Lên đường chân lại nối theo chân
Đêm qua đầu chụm, run bên đá
Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng. ( Từ đêm 19 – Khương Hữu Dụng )
Họ vẫn cùng nhau vui cười rộn rã khi kể chuyện riêng tư. Sự lạc quan trở
thành bản lĩnh Cách mạng giúp người chiến sĩ vượt lên trên tất cả để chiến
thắng :
Đằng nớ vợ chưa !
Đằng nớ ?
Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bên cạnh tình đồng chí, đồng đội thì tình quân dân chính là nguồn nghị lực
khiến họ thêm vững bước chiến đấu với quân thù. Hình ảnh người lính trở
nên gần gũi với đời sống qua tình quân dân, hoàn thành chiến lược của quân
đội ta trong công tác dân vận “đi dân nhớ, ở dân thương”. Người dân đón
tiếp Vệ quốc quân như những người thân đi xa trở về
Bóng tre che mát đường làng
Một hàng quân bước hai hàng người vui ( Quân về – Nguyễn Ngọc Tấn )
Dân làng đón tiếp họ với tấm lòng của người dân nghèo, với “bát nước chè
xanh”, đạm bạc, đơn sơ mà thắm đượm nghĩa tình :
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ,
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau. ( Bao giờ trở lại – Hoàng Trung
Thông )
Từ tấm lòng bà mẹ chở che cho bộ đội :
Bầm yêu con, bầm yêu đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em. ( Bầm ơi – Tố Hữu )
Đến sự yêu quý của cô gái :
Nếu không nhận hết bánh này
Các anh cũng nhận một hai cái dùm. ( Xếp bánh phồng – Nguyễn Hiêm )
Tất cả tình cảm máu thịt gắn bó đó đã theo các anh trong suốt đường ra mặt
trận. Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến thể hiện được vẻ đẹp của
cuộc sống Cách mạng đang chuyển biến đi lên.
Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến chống Pháp là một hình tượng
đẹp trong văn học Việt Nam, đó là bước tiếp nối với hình tượng sĩ phu yêu
nước trong quá khứ, và là hình tượng mở đầu cho hình tượng chiến sĩ giải
phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là
những tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta.
Cũng xin mượn hình tượng người lính mà Nguyễn Đình Thi miêu tả làm lời
kết cho hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp đầy hào
hùng của dân tộc : “Những người lính trẻ với gương mặt rất tươi sáng nhiều
khi cũng lấm lem bùn đất. Họ đi lại với tinh thần xông pha hăng hái, thỉnh
thoảng trên gương mặt lại nhoẻn ra một nụ cười. Tôi liên tưởng hình ảnh đẹp
đó với hình ảnh đất nước. Đất nước đang trải qua những cơn thử thách và
hình ảnh của đất nước vượt lên từ than bụi lấy bùn và rạng rỡ ánh sáng mới :
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. “ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )